Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trang 7

13 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10793)
Trang 7

Hỏi:
 Con bị áp huyết cao, thần kinh căng thẳng, con tiếp tục tham hay ngưng rồi uống thuốc cho hết mới được tham?

Đáp:
 Nếu vậy thì đã kể trên không phải thật rồi, nếu thật quên làm sao còn nhớ áp huyết cao mà sợ? Người ta chưa quên mà còn phải vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ. Nếu còn nhớ cái sợ, tức là còn nhớ cái ngã, làm sao gọi là quên?

Hỏi:
 Nếu vừa hỏi vừa nhìn song song, hỏi đến đâu thì nhìn đến đó, phải vậy không?

Đáp:
 Đó là dùng cái “biết”, chứ không phải dùng cái “không biết”. Tổ Sư thiền là dùng cái không biết của bộ não, để chấm dứt cái biết của bộ não, tức là ngưng hoạt động của bộ não. Vì cái biết của bộ não che khuất cái biết của chơn tâm. Cho nên phải dẹp những cái che khuất, rồi chơn tâm mới hiện ra, gọi là kiến tánh thành Phật.

 Bây giờ không những không chịu dẹp, mà lại dùng cái biết để tìm hiểu, vì có tìm hiểu nên biết mình có áp huyết cao, rồi sợ áp huyết cao, sợ chết, làm sao mà không biết được? Nếu đã quên làm sao biết áp huyết cao và sợ chết?

 Hỏi và nhìn đi song song thì đâu có trước sau! Đâu có hỏi trước nhìn sau, rồi nói hỏi đến đâu rồi nhìn đến đó! Vậy hỏi trước nhìn sau rồi, tức là nhìn theo cái hỏi; hỏi và nhìn cùng một lượt, đâu có phải nhìn theo cái hỏi, cái hỏi theo cái nhìn! Như vậy người đó nghịch với Tổ Sư thiền, vì tìm hiểu cái không biết.

 Cái “không biết” là từ câu hỏi để kích thích lên niệm không biết, nhìn là kéo dài niệm không biết. Nhưng không chịu dùng cái “không biết” để ngưng cái “biết”, mà dùng cái biết để tìm hiểu, để đuổi theo câu hỏi, nên mới nói là hỏi tới đâu nhìn tới đó.

 Nếu đã không biết thì đâu có hỏi tới đâu! Làm sao có chỗ để nhìn tới đó? Vì không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu. Vậy làm sao biết hỏi tới đâu nhìn tới đó được? Tức là câu hỏi mâu thuẩn vì dùng cái biết. Dùng cái biết là không phải tham thiền, tham thiền là dùng cái “không biết”.

 Tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết, 3 cái biết này chấm dứt thì đến thoại đầu. Bây giờ không những không chịu chấm dứt, lại còn kéo dài tìm hiểu, dùng tìm hiểu để tìm hiểu nghi tình, cho nghi tình tới đâu thì tìm hiểu tới đó, tức là có chỗ rồi. Đã không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, nên gọi là nghi tình.

 Hỏi thì không biết nên làm sao có chỗ? Vô sở hữu thì không có, không có nên trống rỗng, trống rỗng thì khắp không gian, khắp không gian tự nhiên không có chỗ. Vì có chỗ nên không cùng khắp không gian. Cùng khắp không gian thì không có khứ lai nên gọi là Như lai.

 Vì trống rỗng cùng khắp không gian tự nhiên cùng khắp thời gian, tại không gianthời gian thì không thể rời nhau được. Cùng khắp thời gian không có sanh diệt gọi là Niết Bàn.

 Tôi không phải có dạy giáo lý cao siêu, là muốn giải tỏa 5 thứ nghi của quý vị để tăng cường lòng tin tự tâm.

 Năm thứ nghi là gì? Là nghi lý, nghi sự, nghi pháp, nghi thầy, nghi mình.

 Tại sao nghi mình? Nghi mình nghiệp chướng nặng; nhiều người cho mình là nghiệp chướng nặng, đó là sai lầm.

 Tại sao nghi thầy? Như tôi dạy quý vị, mà quý vị nghi không biết thầy dạy có đúng không? Nên mới hỏi thì tôi mới giải tỏa cái nghi đó. Như nghi mình nghiệp chướng thì tôi giải tỏa nghiệp chướng không có nặng, không có nghiệp chướng gì hết.

 Tại sao nghi pháp? Không biết pháp này có đúng hay sai, nên tôi giải tỏa cái nghi đó.

 Nghi sự và nghi lý cũng như nghĩa này, không biết đúng hay không đúng, sanh ra cái nghi nên đề ra câu hỏi để tôi giải đáp cho hết nghi.

 Quý vị có hỏi đều ở trong 5 thứ nghi này, qua sự giải đáp thì hết nghi. Vì 5 thứ nghi này làm chướng ngại lòng tin tự tâm. Tham thiền là muốn hiện tự tâm của mình, nếu không tin tự tâm thì tham thiền không hiện tự tâm ra được.

Hỏi:
 Thế nào tránh trong thoại đầu? (Ẩn dấu trong thoại đầu).

Đáp:
 Khi những cái che khuất bị dẹp thì ánh sáng mặt trời hiện ra. Như mặt trời mới mọc thì mình nhìn được, đến chừng ánh sáng mạnh thì nhìn không được. Ánh sáng Phật tánh hiện ra thì ma quỷThiên thần đều không thể thấy được. Nên không thể nói là tránh!

 Bây giờ, người nào đều cũng có hào quang, người nào có tu thì hào quang sáng hơn, không tu thì hào quang tối hơn. Với người kiến tánh thì hào quang rất mạnh.

 Sơ Tổ luật tôngĐạo Tuyên luật sư trì giới rất trang nghiêm, cảm ứng Thiên thần trên trời. Vì trì luật nên ăn ngọ (chỉ ăn một bữa trưa, quá 12 giờ không ăn), mỗi bữa trưa trước giờ ngọ, Thiên thần đem cơm xuống cúng dường cho Đạo Tuyên, ngày nào cũng như mọi ngày, tiếng tăm truyền khắp các nơi.

 Một Thiền sư nghe vậy, muốn biết Thiên thần như thế nào? Nên mới đến thăm Đạo Tuyên để gặp thiên thần. Nhưng hôm đó đợi mãi qua 12 giờ không thấy Thiên thần, ông nghĩ rằng Thiên thần hôm nay bận việc nên không đến, rồi từ giã Đạo Tuyên đi về.

 Sau khi Thiền sư đi về, Thiên thần mới vào. Đạo Tuyên hỏi: Tại sao hôm nay ông đến trễ? Bây giờ quá ngọ thì đâu có ăn được!

 Thiên thần nói: Không phải tôi đến trễ, 11 giờ tôi đã đến rồi, nhưng tòa nhà của ông có hào quang che lấp nên tôi vào không được, lúc hào quang tan hết thì tôi mới vào nhà được.

 Vậy chứng tỏ Thiền sư ngồi đây có hào quang sáng che khắp tòa nhà này, nên Thiên thần không vào được. Thiên thần còn vào không được, huống là quỷ sứ của Diêm La Vương có nhằm gì! Vậy sao mà cần dấu? Nếu mình tu đến kiến tánh thì hào quang cũng mạnh vậy.

 Kim Bích Phong có hào quang mạnh nên quỷ sứ của Diêm La Vương không thấy được. Ông đâu có ẩn dấu! Aån dấu thì không thể được.

 Người ta nói tụng chúlinh nghiệm, tại sao người này tụng chú linh nghiệm, mà người kia tụng chú không linh nghiệm? Linh nghiệm là tâm người tụng, chứ đâu phải do chú ấy! Chú ấy chỉ là công cụ, làm sao có sức dụng? Sức dụng là do tâm.

 Cho nên, người tâm lực mạnh tụng chú thì linh nghiệm, người tâm lực yếu tụng chú thì không linh nghiệm. Chứng tỏ chú ấy không có linh nghiêm gì hết, có linh nghiệm hay không là tâm người tụng, chứ không phải do chú. Hỏi câu thoại đầu cũng vậy, câu thoại chỉ kích thích niệm không biết, chứ đâu có sức che dấu!

Hỏi:
 Người tham thoại đầu, khi nghi tình thành khối thì Diêm La Vương có bắt được người ấy không?

Đáp:
 Nếu dẹp hết che khuất thì hào quang hiện ra, tức là được tâm lực mạnh thì nghiệp lực sẽ sửa đổi. Như lúc mình tạo ác nghiệp, kiếp trước làm cho người ta chết đói, nhưng tâm lực chỉ 1 độ. Kiếp này mình không tu thì tâm lực cũng chỉ 1 độ, nên phải chịu quả chết đói.

 Nếu mình biết tu thì tâm lực từ 1 độ lên đến 2 độ,…10 độ, tức là không làm ác mà chỉ làm thiện, cái quả sẽ đến trước. Các nhân ác đã làm, nhưng yếu hơn nhân thiện, nên nhân ác này phải ẩn lại để nhân thiện hiện ra trước.

 Như mình tham thiền tâm lực lên 10 độ, rồi không tham thiền nữa, khi cái quả 10 độ hết thì quả 9 độ đến, dần dần đến quả 1 độ thì mình phải chịu chết đói. Còn bây giờ mình không có ngưng tham thiền, từ 1 độ đến 1 triệu độ là thành Phật, nhưng cái nhân chết đói đó vẫn còn.

 Khi thành Phật phải độ chúng sanh (nghĩa chữ “Phật” là tự giác, giác tha. Giác tha là độ chúng sanh). Những người nào mình làm cho họ chết đói thì tự nhiên phải độ họ trước.

 Tiền thân của Phật là Tiên Nhân bị Ca Lợi Vương xẻ thịt, sau này vị Tiên Nhân thành Phật Thích Ca, Ca Lợi VươngKiều Trần Như thì được độ trước, nên cái nhân mới hết.

 Khi kiến tánh thành Phật thì không phân biệt thiện ác, người có ân với mình thì cũng được độ, người có thù với mình (hại mình) cũng được độ, như tiền thân Kiều Trần Như hại tiền thân Phật cũng được ưu tiên độ trước.

 Chánh pháp phải phá ngã chấp, nếu tu có ngã chấp thì không bao giờ kiến tánh được. Tu là phải quên thân mình, đừng coi nặng thân này, coi nặng thân này là ngã chấp. Như có người nói là xuất gia, đáng lẽ xuất gia là ra gia đình, tức là không có gia đình. Nhưng cũng phải lo cho gia đình, lo cho con cái, lo cho cháu chắc.

 Nếu dùng tiền của Thí chủ 10 phương để lo cho gia đình thì sau này phải làm trâu làm ngựa trả nợ cho Thí chủ. Cho nên Phật giáobài kệ:
 Hạt gạo của Thí chủ,
 Lớn bằng núi Tu di.
 Nếu không tu giải thoát,
 Mang lông đội sừng trả.

 Cho nên, một hạt gạo của Thí chủ không dễ gì ăn! Không phải mình cạo đầu mặc áo tu cho là có địa vị cao, mà để cho người ta kính lễ cúng dường, nếu mình thiếu tu thì không thể được.

 Người tại gia có bổn phận của chồng, vợ, con cái. Người Tu sĩ có bổn phận của người Tu sĩ, Sa Di có bổn phận của Sa Di, Tỳ Kheo có bổn phận Tỳ Kheo, Sa Di NiTỳ Kheo Ni đều cũng vậy.

 Nếu không giữ đúng vai trò của mình, như kinh Lăng Nghiêm nói có 4 thứ địa ngục:

 1- Hư tiêu Tín thí: Là những việc ăn, ở, đi,… đều của Thí chủ cúng dường cho mình, nếu mình không tu giải thoát theo đúng nghĩa chữ Phật, phải đầu thai trâu ngựa trả nợ cho Thí chủ sau khi chết. Cho nên, mình làm Tu Sĩ thọ nhận của 10 phương Thí chủ, mình phải tu giác ngộ, rồi giác ngộ cho người khác, mới đúng nghĩa chữ “Phật” là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

 2- Lạm nhận cung kính: Như người tại gia lạy người xuất gia, nếu người xuất gia không giữ đúng bổn phận của mình, tức là không có tu thì gọi là lạm nhận cung kính của người tại gia, cũng là tội địa ngục, phải đầu thai trâu ngựa để trả nợ cho Thí chủ.

 3- Phỉ báng đại thừa.

 4- Phá hoại luật nghi.

Hỏi:
 Vừa rồi Sư Phụ nói chấp nghiệp sâu nặng là sai lầm. Vậy như thế nào?

Đáp:
 Một Kỹ sư người Mỹ, khoa học và Phật pháp đều thông suốt. Kỹ sư nói với tôi: Con có nghiệp chướng phiền não nhiều quá, thầy dạy cho con trừ nghiệp chướng đó.

 Tôi hỏi Kỹ sư: Nghiệp chướng của ông phải không?

 Kỹ sư đáp: Phải.

 Tôi hỏi: Nếu nghiệp chướng của ông thì ông biết nghiệp chướng từ đâu mà ra? Như tiền trong túi của ông thì ông biết tiền đó từ đâu mà có phải không?

 Kỹ sư suy nghĩ trả lời không được. Tôi nói tiếp: Ông khỏi trả lời, tôi sẽ nói cho ông biết, nghiệp chướng của ông là do ông suy nghĩ mà ra. Tâm ông là năng suy nghĩ, nghiệp chướng là sở suy nghĩ. Năng thì không phải sở, sở thì không phải năng. Tâm của ông không có nghiệp chướng, tại ông suy nghĩ nên mới có sở sanh ra nghiệp chướng.

 Tâm là danh từ mà ai cũng nói được, nhưng ai cũng không biết được. Kỹ sư giỏi khoa học, thông suốt giáo lý, nhưng đối với danh từ “tâm” còn mơ hồ. Tôi nói vậy Kỹ sư chưa hiểu được, vì tâm là một danh từ trống rỗng, không có hình thể, không có số lượng. Nên tôi phải nói cái khác, nói cái có hình thể có số lượng.

 Hai chân của ông là năng đi, con đường gai gốc cứt sình là sở đi của hai chân, tại vì hai chân của ông ham giẫm trên con đường đó, rồi bị dính cứt sình, tự cho cứt sình của mình.

 Kỹ sư hỏi tôi: Có cách nào để rửa sạch cứt sình đó?

 Tôi nói: Khỏi cần, cái đó là sở thôi, hai chân của ông sạch đâu có cứt sình! Vì hai chân của ông ham đi con đường đó, mới bị dính cứt sình, cho cứt sình đó của ông, rồi nhờ tôi tìm cách rửa sạch cứt sình đó. Mặc kệ nó, chỉ cần hai chân không giẫm trên con đường đó thì đâu có bị dính! Vì nó là sở.

 Tâm của ông cũng vậy, tâm của ông đâu có nghiệp chướng! Tại ông ham suy nghĩ nên mới có nghiệp chướng, nghiệp chướng đó là sở suy nghĩ.

Hỏi:
 Câu “bổn lai vô nhất vật”, hiện tại con tham câu “chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật là cái gì?” Ý 2 câu này có giống nhau không ?

Đáp:
 Tham thiền là dùng cái không biết để chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Không được tìm hiểu câu thoại đầu, tìm hiểu nghi tình. Tìm hiểu đáp án câu thoại là sai lầm lớn. Ba cái biết trên (tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ) hết, đến thoại đầu mới hy vọng kiến tánh. Nếu dùng cái biết tìm hiểu nghi tình thì vĩnh viễn không thể kiến tánh được.

Hỏi: 
 Đức Phật Thích Ca mới sanh ra nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Chúng con chưa rõ, xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
 Phật Thích Ca mới sanh ra nói câu này là muốn hiển bày Tự tánh bất nhị. Thiền tông có một công án cũng ý này:

 Tăng đem việc này hỏi Vân Môn. Vân Môn nói: “Nếu lúc ấy gặp, tôi sẽ đánh chết cho chó ăn”.

 Tại sao? Phật Thích Ca nói “duy ngã độc tôn” là không có đối đãi, tức là bất nhị. Nếu có Phật thích CaVân Môn khác nhau là nhị rồi. Đánh chết mà còn xác cũng là nhị, nên phải đem xác cho chó ăn thì không còn xác mới gọi là bất nhị. Cho nên, Vân Môn nói: “Đánh chết cho chó ăn” cũng là hiển thị nghĩa bất nhị.

Hỏi:
 Hoàng hậu Ma Gia nơi vườn Lâm Tỳ Ni sanh ra Thái tử, có nơi gọi là đản sanh, có nơi nói là sanh bên hông, xin Sư Phụ từ bi khai thị?

Đáp:
 Tự tánh bất nhị không thể dùng lời nói để diễn tả được. Thường thường dùng văn học cổ truyền của Ấn Độ để thí dụ diễn đạt. Nếu lấy đó để giải thích thì vô lý, giống như thần thoại, không nên hiểu theo ý của mình.

 Lời của chư Phật chư Tổ là muốn mình ngộ, không phải muốn mình hiểu. Nếu mình không ngộ thì không hiểu, không hiểu thì sẽ phát nghi, giữ cái nghi đó sau này sẽ được ngộ.

 Ngài Long Thọ nói “Tâm như hư không vô sở hữu” tức là trống rỗng thì không có nghĩa lý gì hết. Nhưng bộ não đem cái không đó hạn chế thành cái không của cái tách, cái bình, cái nhà,… thì muôn ngàn thứ nghĩa không khác biệt, vì có hạn chế nên mới sanh ra nghĩa lý, có nghĩa lý rồi mới có sự tranh cải.

 Nếu không có cái không làm sao dựng cái nhà lên được? Làm sao có cái không của cái tách? Làm sao có cái không của cái bình? Cái không ở trong nhà và cái không ở ngoài nhà, cái không ở trong tách và cái không ở ngoài tách thì đâu có khác?

 Nhưng đem cái không này không kia để hạn chế thành ra có khác. Cái dụng của mỗi thứ đều khác, nhưng nguồn gốc của nó thì không có khác, mà luôn nghĩa lý của nó không có nữa. Vì kiến lập rồi nên mới có nghĩa lý khác nhau.

 Cho nên, Phật Thích Ca rất sợ người ta đuổi theo lời nói, vì vậy Phật nói “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ”. Kinh Kim Cang nói “ai nói Phật có thuyết phápphỉ báng Phật”. Vì không thể nói được, nếu nói được thì không phải rồi. Nói ra là để mình ngộ nhập, chứ không phải để hiểu nghĩa lý, nên tìm hiểu nghĩa lýsai lầm, nghịch với ý Phật.

Hỏi:
 A lại da thức là gì?

Đáp:
 A lại da thức là thức thứ 8. Tiền ngũ căn (nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn) là đối với tiền ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc) mới có tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức). Thứ thứ 6 là đối với pháp trần (không cần trước mắt), cũng như quá khứ, vị lai cách xa đều thấy được.
 
 Thức thứ 7 gọi là mạt na thức, có 2 nhiệm vụ:
- Chấp thức thứ 8 là ta.

- Truyền tống thức là đem chủng tử thiện ác của thức thứ 6 vào thức thứ 8 và khi chủng tử thiện ác chín mùi từ thức thứ 8 giao cho thức thứ 6 cùng 5 thức trước thi hành.

Thức thứ 8 còn gọi là tạng thức, tức kho chứa chủng tử thiện ác. Đầu thai là thức thứ 8 đi, nhưng thức này bao gồm hết 7 thức kể trên, chứ không phải có 8 thức riêng biệt.

Bản thểA lại da thức cũng là bản thể sanh mạng và bản thể vũ trụ. Vì bản thể này trống rỗng tức là vô sở hữudung nạpứng dụng. Như hư không trống rỗng dung nạp mặt trời, mặt trăng, đất đai, nhà cửa,… bất cứ cái gì cũng đều nhờ cái trống rỗng này.

Hỏi:
 Tâm viên ý mã ẩn dụ như thế nào?

Đáp:
 Như con khỉ ở trên cây nhảy qua nhảy lại, con ngựa hay chạy nhảy, không bao giờ yên tịnh.

 Tâm của mình cũng vậy, suốt ngày nổi niệm này sang niệm khác, cứ suy nghĩ liên tục không bao giờ ngưng, nên gọi là “tâm viên ý mã”. Trong Phật học gọi là nhất niệm vô minh, ban đêm hoạt động gọi là nhắm mắt chiêm bao, ban ngày hoạt động biến hiện ra mở mắt chiêm bao.

Như bây giờ tôi đang giảng và các vị đang nghe đều ở trong mở mắt chiêm bao là do tâm thức hoạt động biến hiện ra.

Hỏi:
 Thế nào là giới tánh?

Đáp:
 Giới luật nhà Phật chia ra làm 2 thứ: Tánh giới và giá giới.

- Những giới có dính líu đến sát, đạo, dâm, vọng gọi là tánh giới.

- Những giới thuộc về oai nghi gọi là giá giới. Ở trong giới luật Tỳ Kheo có 100 giới oai nghi thuộc về giá giới, giới này không có tội nhân quả mà có tội phạm giới.

Tại sao Phật muốn chế giới? Vì Phật muốn đem Phật pháp hoằng dương ở nước nào cũng hoan nghinh, nên phong tục tập quán của nước nào thì giới luật cũng có thể thuận theo.

Như phong tục ở Ấn độ không cho Tu sĩ đi làm ruộng, nếu Tu sĩ đi làm ruộng thì phạm giới, nên Tu sĩ phải đi khất thực để sống. Ở Trung Quốc, nếu Tu sĩ đi làm ruộng thì được hoan nghinh, còn đi khất thực thì người ta chê là “con sâu ăn gạo”.

Cho nên, Tu sĩTrung Quốc làm ruộng là giữ giới, ở Ấn Độphạm giới, tức là theo phong tục truyền thống của địa phương, nên gọi là giá giới. Để Phật giáo khỏi bị phê bình là không tốt, giá giới có thể tùy theo địa phương mà thay đổi.

Tánh giới thì không thể thay đổi, tánh giới là có cái phạm pháp luật nhà nước, có tội nhân quả. Như sát, đạo, dâm, vọng thì bất cứ nước nào cũng có pháp luật để cấm.

Mặc dầu, những giới mà nhà nước không cấm, nhưng có tội nhân quả. Như giới sát, nếu giết hại con người thì cấm, còn giết hại súc sanh thì không cấm, nhưng có tội nhân quả, tức là giết một mạng phải trả một mạng, ăn cục thịt phải trả lại cục thịt.

 Pháp giới tánh thì lại khác, pháp giớibao gồm tất cả vũ trụ. Chữ Hán là tùy theo chỗ hợp danh từ này thì nghĩa thế này, với danh từ kia là nghĩa thế kia, danh từ có nghĩa khác nhau. Như thường nói tánh và tướng khác nhau, chưa giác ngộ thì khác, khi giác ngộ rồi thì tánh và tướng chẳng khác, gọi là bất nhị. Cho nên, nguồn gốc vạn vậtthật tướng. Nói là Tự tánh bất nhị thì thật tướng cũng là bất nhị vậy.

Hỏi:
 Vừa nhìn vừa hỏi song song với nhau. Vậy nhìn vào câu hỏi hay nhìn chỗ không biết mới đúng?

Đáp:
 Câu thoại đầukích thích niệm không biết, không phải nhìn vào câu thoại đầu; nhưng hỏi với nhìn phải cùng một lượt, không có trước sau, phải một tâm hỏi và một tâm nhìn; hỏi và nhìn cùng một tâm đồng thời 2 thứ, 2 thứ không gián đoạn đều một lượt.
 
Như mình muốn 3 thứ một lượt cũng được. Ví dụ cái đồng hồ này, nhìn kim giờ, kim phút và kim giây và 3 kim này chạy không gián đoạn.

Hỏi:
 Xin Sư Phụ kể lại người bán đậu hủ đi 3 vòng trong Thiền Đường thì được lợi ích, lúc chết không đầu thai làm con chó, mà được tăng thêm 30 năm nữa?

Đáp:
 Phật nói: “Tất cả đều do tâm tạo”, Phật pháp muốn hiển bày cái tâm, tâm ấy là chơn tâm, không phải bộ não. Người ta nói tâm là bộ não, biết tìm hiểu, biết suy nghĩ, biết ghi nhớ. Như vậy không phải là chơn tâm, mà là vọng tâm che khuất chơn tâm

 Chơn tâm là không hình thể, không số lượng, không phải vật chất. Vọng tâm là bộ não, hệ thống thần kinh đều là vật chất. Vật chất có thể hoại diệt. Còn phi vật chất, như 8 thức thì không thể hoại diệt.

 Tham thiền được tâm lực mạnh, những thứ che khuất bị dẹp thì chơn tâm hiện ra. Sức chơn tâm rất mạnh không bị không gianthời gian hạn chế.

 Người thiền định đến mức nào thì có thể biết được quá khứ, biết được vị lai. Ông bán đậu hủ thiền định chưa đến mức đó, nhưng cũng hiện ra một chút dụng. Các nghiệp ác của ông tạo yếu thì ẩn lại sau, các nghiệp thiện của ông tạo mạnh hơn thì hiện ra trước. Không phải ông đó đi 3 vòng mà được lợi ích.
 
Như Kim Bích Phong chỉ có 1 tuần lễ ra sức tham thiền thì quỷ sứ không thấy được ông. Tham thiền được tâm lực mạnh thì có thể sửa đổi nghiệp quả của mình, nên đời sống cũng được sửa đổi.

Hỏi:
 Kính xin Hòa thượng giảng chữ “tri” của Ngài Huyền Giác?

Đáp:
 Chữ “tri” của Ngài Huyền Giác là cái tri của Phật tánh, tri của Phật tánh thì không thể kiến lập, vì vốn sẵn có đã kiến lập rồi. Nếu có kiến lập thì thành 2 cái tri. Một người chỉ một cái tri, nếu kiến lập thành 2 cái tri, nên Thiền tông gọi là “đầu mọc thêm đầu”.

 Bây giờ mình có một cái đầu thì đủ dùng, nếu ở trên đầu mọc thêm một cái đầu nữa thì khổ lắm, phải mời bác sĩ cắt bỏ mới được, cho nên tri không thể kiến lập.

 Bốn bài kệ của Ngài Huyền Giác nói về chữ “tri”:
 1- Bài kệ thứ nhất là kiến lập sở tri tịch lặng, bình thường người ta tu đến thanh tịnh cho là cao, nhưng kiến lập sở tri biết tịch lặng thành chướng ngại, không hiện ra cái dụng hoạt bát vạn năng của bản tri (vô duyên tri), vì có sở tri thì phải có năng tri. Như tay cầm như ý thì trụ nơi ngoại cảnh, đánh mất sự hoạt bát vạn năng của tay, tay chẳng cầm cây như ý thì tay muốn lấy gì cũng được, hễ tay cầm cây như ý thì muốn lấy gì cũng chẳng được.

2- Bài kệ thứ hai là tiến thêm một bước, dù chẳng lập sở tri nhưng biết mình có năng tri vẫn là kiến lập sự tri, nên chẳng phải vô duyên tri. Như tay chẳng cầm vật bên ngoài mà tự làm nắm tay (tức là trụ nơi cái tri của tự mình kiến lập) thì mất hết sự dụng hoạt bát vạn năng của cánh tay, nên chẳng thể cầm lấy đồ vật nào cả.

3- Vậy chẳng biết ngoại cảnh cũng chẳng tự có biết, người ta thường cho như thế là lọt vào vô tri như gỗ đá chẳng biết gì cả, nên có bài kệ thứ ba: Vì tự tánh rõ ràng, chẳng đồng như gỗ đá. Thế thì làm sao chứng minh được?

4- Nên có bài kệ thứ tư dùng cánh tay để chứng tỏ: Như tay chẳng cầm vật ngoài, cũng tự làm nắm tay, chẳng phải là không tay, vì tay vẫn an nhiên chẳng hề bị mất, nên chẳng đồng như sừng thỏ, vì sừng thỏ chỉ có tên gọi mà chẳng có vật thật vậy.

Ngài Huyền Giác luôn cả cái tri cũng không kiến lập, nhưng người tham thiền hay ham thích cái biết, dùng vọng tâm để tìm hiểu; dùng vọng tâm là mây đen che khuất, Phật dạy mình dẹp hết che khuất, lại không chịu dẹp mà càng tăng thêm. Ngài Huyền Giác dạy mình đừng kiến lập cái biết, vì cái biết chơn tâm sẵn có, chỉ cần dẹp những che khuất thì cái biết chơn tâm hiện ra dùng.

Nhưng bây giờ người ta khó tin, khi đã sanh ra thì cha mẹ dạy mình chấp thật rồi, tin cái biết vọng tâm. Vào trường thầy cô cũng dạy mình vậy. Bổng nhiên sửa lại, nghịch với thói quen của mình, nên rất khó. Cho nên, Phật dạy lấy cái “không biết” của bộ não để chấm dứt cái “biết” của bộ não, tức là ngưng hoạt động của bộ não.

Hỏi:
Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng. Nghĩa này như thế nào?

Đáp:
 Thuốc là dùng để trị bệnh; Phật pháp là trị bệnh chấp ngã, nhưng người ta không biết, như học giáo lý, học sơ cấp rồi lên trung cấp, lên cao đẳng; theo chánh pháp thì phải phá ngã chấp mới đúng, thực tế thì không phải vậy.

 Lúc học sơ cấp thì cái ngã còn nhỏ, học hết trung cấp thì cái ngã lớn hơn, đến cao đẳng thì ngã càng lớn nữa cho mình biết nhiều. Chỗ này kinh Viên Giác, Phật có chỉ ra: Những người cho mình thuyết pháp tứ là thuyết cái ngã tướng, không phải thuyết pháp Niết Bàn. (Ở văn phòng 2 có đọc. Trang 333).
-----------------------------------------------------------

 Tức là thông suốt giáo lýtăng cường ngã chấp, ngã chấp đó là ma. Cho nên, Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng là vậy. Cho ta thuyết pháp, các ngươi là người nghe pháp, đó là cái ngã.

 Hiểu hết giáo lý của Phật, rồi cho ta là cao nhất, ta biết còn các ngươi không biết, đó chính là cái ngã, ngã là ma, vì thế không ngộ được bản giác trong sạch.
 
lời Phật dạy đâu phải của mình tu chứng! Nhưng rồi cho là của mình, mình thông suốt giáo lý, thuyết pháp độ sanh, lại chấp vào đó, chính là “ma cao nhất trượng”.

Hỏi:
 Từ vô thỉ, Đạo cùng một cội nguồn. Nay ta theo đạo Phật, ta có thể tìm thêm kiến thức cho ta để chứng ngộ không? Vậy có phải ngay đó tự đến? Tìm ai? Tìm ở đâu?

Đáp:
 Câu hỏi này đã sai lầm rồi, Phật đã nói vô thỉ thì không có cội nguồn, có cội nguồn tức là có thỉ (có bắt đầu). Phật đã nói trắng ra là không có sự bắt đầu, cũng là nghĩa vô sanh tức là không có sanh khởi. Nếu có sanh khởi thì mới có nguồn, đã không có sanh khởi làm sao có nguồn! Có nguồn thì mới có bắt đầu. Nhưng thực tế thì không thể bắt đầu. Cho nên, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, cũng là chứng vô sanh pháp nhẫn.

 Nếu bắt đầu thì bắt đầu từ chỗ nào? Theo mình hiểu thì phải 2 chỗ bắt đầu: Chỗ có và chỗ không có.

 -Nói bắt đầu từ chỗ có thì không gọi là bắt đầu. Tại sao? Vì cái có kia đã bắt đầu rồi.

-Bắt đầu chỗ không có là vô lý. Tại sao? Vì bắt đầu chỗ không có thì không sanh ra đủ thứ. Như cây lý khỏi cần cây lý sanh, cây đào khỏi cần cây đào sanh, con người khỏi cần con người sanh, con dê khỏi cần con dê sanh. Nếu vậy thì loạn hết rồi, nhưng thực tế thì không phải vậy. Con người thì phải con người sanh, con dê thì phải con dê sanh, cây đào thì phải cây đào sanh, cây lý thì phải cây lý sanh, chứ không phải từ chỗ không có mà sanh được.

Không cần tinh trùng con dê đực cũng có thể làm ra con dê được, tuy không có tinh trùng nhưng phải có tế bào của con dê đực; tế bào của con dê đực là chủng tử thức thứ 8, tức là thức thứ 8 làm cơ nhân, đem tế bào của con dê đực chích vào trứng con dê cái, rồi ở trong tử cung con dê cái sanh ra con dê con. Đâu phải chỗ không có mà sanh ra được? Nếu chỗ không có mà sanh được thì loạn hết! Vì tất cả không có sự bắt đầu, không có sanh khởi, vậy làm sao có nguồn?

Câu “từ vô thỉ đến nay” đã là bệnh. Vô thỉ làm sao có đến nay được? Phải hữu thỉ mới có đến nay, phải bắt đầu kiếp nào rồi đến kiếp nào. Vô thỉ thì không có lúc bắt đầu, sự thật câu nói của thế gian đều là bệnh, vì ở trong tương đối. Như nói kiến tánh, nếu chấp 2 chữ “kiến tánh” cũng là bệnh. Vì Tự tánh khôngsở kiến, nếu Tự tánhsở kiến thì có năng kiến rồi, có năng sở là nhị. Tự tánhbất nhị không có năng sở.

Kinh Viên Giác nói: “Biết có sở chứng thanh tịnh Niết Bàn cũng là ngã tướng”. Người hỏi này có ngã tướng quá nặng không thể cứu nổi. Chánh pháp Phật pháp thì phải phá ngã chấp. Tứ tướngngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng (kinh Kim cang), kinh Viên Giác gọi là thọ mạng tướng. Bốn thứ tướng này là cảm giác sai lầm của vọng tâm. Như nói chứng quả là ta chứng, đó là ngã tướng, nói thuyết pháp là thuyết cái bệnh ngã tướng, không phải thuyết pháp Niết Bàn.

Hỏi:
 Cái biết sẵn có, có thể sáng chế như cái biết của các khoa học gia không?

Đáp:
 Không thể kiến lập cái biết, nếu có kiến lập thì giống như trên đầu mọc thêm đầu, làm chướng ngại cái đầu chính, cần bác sĩ cắt bỏ mới được.

Hỏi:
 Tánh hung ác, tánh không chân thật, tánh tham lam,… Vậy tánh nào là chân tánh của các tánh trên và có khác với tánh thấy tánh nghe không?

Đáp:
 Tất cả đều là vọng, kinh Lăng Nghiêm nói: “Chơn với vọng là 2 thứ vọng”, phàm có tương đối đều là vọng, hễ có dùng lục căn nhận biết đều là vọng.

Hỏi:
Nói có tâm độc ác, có tâm tham, có tâm thiện. Các tâm ấy đều là vọng, trước không khởi, đó có phải là chơn không?

Đáp:
Chơn với vọng là hai thứ vọng, còn thực tế thì không có đối đãi, không có chơn với giả, không có chơn với vọng, gọi là Tự tánh bất nhị hay Thật tướng vô tướng, không phải chấp vào một bên mà nói vô tướng. Tức là hữu tướng cũng vô và vô tướng cũng vô, Thật tướng là phá vô tướnghữu tướng. Nếu chấp thật cái hữu tướngbiên kiến, chấp thật vô tướng cũng là biên kiến.

Người hỏi này thì Phật không thể giáo hóa nổi, vì có ngã chấp quá nặng.

Hỏi:
 Tám thức chuyển thành tứ trí chỉ là tên gọi chẳng chân thật, nghĩa là chỉ chuyển cái tên mà cái thể chẳng thể chuyển. Vậy bản lai diện mục của vô thỉ vô minhbản lai Phật tánh giống nhau không?

Đáp:
 Chuyển thức thành tứ trí của Pháp Bảo Đàn có 8 câu kệ:

 Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
 Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh.
 Diệu quan sát trí chẳng tác ý,
(Sự thấy của Diệu quan sát trí chẳng cần tác ý)
 Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
 Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển,
 Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh.
 Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc,
 Ở chỗ náo động cũng đại định.

Lược giải:
1. Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh: Thức thứ 8 chuyển thành trí, như gương tròn chiếu soi, phổ chiếu vạn pháp là trí vốn thanh tịnh của bản tánh.

2. Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh: Thức thứ 7 chấp thức thứ 8 là ta (thức thứ 8 là bản thể tất cả pháp) thành ô nhiểm, nay chuyển thành “bình đẳng tánh trí”, ảnh hưởng thức thứ 6 chẳng khởi phân biệt tưởng thì tâm chẳng bệnh.

3. Diệu quan sát trí chẳng tác ý: Do sự chấp ngã của thức thứ 7 khiến thức thứ 6 sanh khởi vọng tưởng phân biệt, khi chuyển thành Diệu quan sát trí rồi, dù thấy mà chẳng có tác ý phân biệt, nên gọi là chẳng tác ý.
4. Thành sở tác trí đồng viên cảnh: Tiền ngũ thức duyên theo sự lãnh đạo của thức thứ 6 mà khởi vọng tưởng phân biệt, khi chuyển thành sở tác trí rồi, tức đồng như Đại viên cảnh trí, dù dùng nhưng chẳng tác ý phân biệt.

5. Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển: Nghĩa là lục và thất trong nhân chuyển, thức thứ 6 là nhân tiệm tu của Giáo môn, thức thứ 7 là nhân đốn ngộ của Thiền môn. Ngũ và bát là trên quả chuyển, vì vọng chấp của thức thứ 7 chuyển thì ngũ và bát cũng chuyển theo.

6. Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh: Nghĩa là 8 thức kể trên chuyển thành tứ trí chỉ là tên gọi chẳng có tánh thật, nghĩa là chỉ chuyển cái tên, chẳng thể chuyển cái thể vậy.

7. Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc: Nghĩa là ở ngay nơi chuyển mà chẳng chấp trước, chẳng chấp thật.

8. Ở chỗ náo động cũng đại định: Nghĩa là ở chỗ náo động cách mấy cũng đều đại định, chẳng có nhập địnhxuất định tức là vĩnh viễn ở trong định.
Đây là chuyển 8 thức thành 4 trí.

Hỏi:
 Như Lai thiền dùng cái “biết” để tu, tu khác với Tổ Sư thiền như thế nào?

Đáp:
 Như Lai thiền là dùng cái “biết” để tu, còn Tổ Sư thiền dùng cái “không biết” để tu. Bộ não của mình gồm có 2 mặt: Mặt biết và mặt không biết. Dùng mặt biết để tu là Như Lai thiền, Như Lai thiền của Phật dạy, còn dùng cái biết của tà ma ngoại đạo thì không phải.

Dùng cái không biết cũng là Phật Thích Ca dạy, do Phật Thích Ca truyền xuống cho Ma Ha Ca Diếp, rồi Ma Ha Ca Diếp truyền cho A Nan, A Nan truyền cho Thương Na Hòa Tu,… từ Tổ từ Tổ truyền xuống, nên gọi là Tổ Sư thiền. Thiền này chỉ hỏi và nhìn, hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là giữ niệm không biết được kéo dài.

Tu Như Lai thiền gồm có 52 cấp (Thập Tín,Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng GiácDiệu Giác). Tổ Sư thiền từ địa vị phàm phu tu chứng Phật quả, không qua giai cấp nào.

Hỏi:
 Ban đêm tham Tổ Sư thiền, ban ngày học giáo lý. Vậy con đi 2 cái song song được không?

Đáp:
 -Biết và không biết có nghịch nhau không?

 - Có nghịch nhau.

- Nếu có nghịch nhau làm sao song song được? Bây giờ cô học giáo lý Tiểu thừa, Trung thừa hay Đại thừa?

- Con học sơ cấp Phật học năm thứ hai ở chùa Tòng Lâm.

Cô nói đại khái sơ cấp là gì?

- Bài đầu tiên là vô thường, kế đến nghiệp và nhân quả, luân hồi, thiểu dục tri túc, đó là năm thứ hai của con.

- Theo cô nói thì gần như Tiểu thừa, nhưng phải căn cứ kinh nào? Vì giáo môn phải căn cứ lời kinh.

- Bây giờ có lẽ là kinh Tiểu thừa, nhưng ở chùa con có chương trình Cao đẳng Phật học thì học Diệu Pháp Liên Hoa.

- Kinh Diệu Pháp Liên Hoakinh Đại thừa, thiền của Đại thừa thì khác thiền của Tiểu thừaTrung thừa. Thiền Đại thừa gọi là Bồ Tát thừa. Thiền Trung thừa gọi là Duyên Giác thừa. Thiền Tiểu thừa gọi là Thanh Văn thừa.

Thiền Thanh văn thừaNgũ Đình Tâm Quán có 5 thứ thiền quán: Sổ Tức Quán, Bất Tịnh Quán, Từ Bi Quán, Lục Thức Quán, Nhân Duyên Quán. Những thiền quán này là đình chỉ cái tâm.

Cô học Tiểu thừa mà không biết Tiểu thừa thiền là gì! Còn Trung thừaDuyên Giác, thiền của thừa Duyên GiácThập Nhị Nhân Duyên là từ vô minh đến lão tử (12 thứ nhân duyên). Trong Đại Thừa Tuyệt Đối Luận có giải thích 4 thừa.

Ba thứ thiền quán ghi trong kinh Lăng Nghiêm, nhưng chỉ dịch âm không có dịch nghĩa, gọi là Sa ma tha, Tam ma bát đề, Thiền na.

Kinh Viên Giác giải thích 3 thứ thiền:

-Sa ma tha là thiền quán cực tịnh, thí dụ như gương soi các tướng; bất cứ người nào đến gần trước gương thì nó chiếu soi rõ ràng, nhưng nó không lay động.

-Tam ma bát đề là biến hóa mình không thể thấy được, nó đang biến hóa, thí dụ lúa mạ dần dần tăng trưởng, như mình đem hạt lúa bỏ vào đất thì mọc thành cây mạ, không thấy nó tăng trưởng, nhưng nó đang tăng trưởng trong từng sát na.

-Thiền na thí dụ tiếng ẩn trong chuông trống, như chuông trống đâu có tiếng, nhưng trong đó có tiếng, đánh nhẹ ra tiếng nhỏ, đánh mạnh ra tiếng lớn, mà tiếng không bị hạn chế trong chuông trống, nó vượt ra ngoài xa tùy theo mức độ đánh.

Tông Thiên Thai Trung Quốc có 3 thứ Chỉ quán thiền:

-Sa ma tha giống như Không quán của tông Thiên Thai.

-Tam ma bát đề giống như Giả quán của tông Thiên Thai.

-Thiền na giống như Trung quán của tông Thiên Thai.

Nhưng chỉ giống thôi, chứ không phải hoàn toàn không có khác! 4 tông thiền quán Đại thừa của Trung Quốc là : Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức. Mỗi thừa đều có thiền quán riêng biệt, thiền quán đó không ngoài Sa ma tha, Tam ma bát đề, Thiền na. Nhưng mỗi mỗi khác, không phải hoàn toàn giống nhau hết, cuối cùng có một cái giống nhau là “ từ nghi đến ngộ”.

Tổ Sư thiền là bắt đầu từ nghi rồi đến ngộ. Hành giả mới bắt đầu tham thiền, tôi đã dạy hỏi và nhìn tức là giữ cái nghi (không hiểu không biết) để đưa đến ngộ.

Tông Thiên Thai mới trải qua rất lâu đến cùng tột rồi mới phát nghi. Như ban đầu thì quán giả, quán mãi thấy không thật giả, rồi đến quán không, nhưng không thì không phải thật không, chẳng phải giả chẳng phải không thì quán trung.

Nhưng giả với không là hai đầu, hai đầu không có làm sao quán trung được? Tức là hai đầu không có làm sao có chính giữa được? Cho nên mới phát nghi “không phải giả, không phải không, không phải trung là cái gì?” Ấy là phát nghi rồi, phát nghi là đến thể chơn chỉ, gọi là tam chỉ tam quán.

Ban đầuhệ duyên chỉ, tùy duyên chỉ đến thể chơn chỉ. Thể chơn chỉ là thể cứu Chơn Như bằng tham Tổ Sư thiền, nhưng đến chỗ cùng tột mới tự nhiên phát nghi. Vì cái gì đều cũng không phải thì tự nhiên phát nghi: Tại sao? Là cái gì vậy? Là cái gì mới phải?

Bất cứ tông nào cũng vậy, như tông Hiền Thủ gọi là Pháp Giới Quán thiền, gồm có: Lý pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới, rồi đến sự sự vô ngại pháp giới, mới phát nghi giống như tông Thiên Thai vậy.

Vì có nghi mới có ngộ, cho nên cuối cùng các pháp môn đều phải phát nghi, như tông Tịnh Độ cũng vậy.

Có một số người không nhìn nhận tu Tịnh Độ là thiền, tất cả pháp môn của Phật dạy đều là Thiền, 3 cách tu Tịnh Độ là thiền, có số người tu Tịnh Độ không biết. 3 cách tu của Tịnh Độ là:

1-Thật tướng niệm Phật giống như Tổ Sư thiền.

2-Quán tưởng niệm Phậtthiền quán trong kinh Quán vô Lượng Thọ là kinh của Tịnh Độ. Tịnh Độ chỉ có 3 thứ kinh: Kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng ThọA Di Đà (tiểu A Di Đà, đại A Di Đà). Phật có dạy 16 pháp thiền quán ghi ở trong kinh Quán Vô Lượng Thọ.
 
Nhưng sao số người tu Tịnh Độ không nhìn nhận Tịnh Độ có thiền? Tôi cũng không hiểu nữa! Mà lại những người ấy bài xích thiền! Vì bất cứ pháp môn nào đều phải có thiền mới gọi là tu. Nhưng thiền có đủ thứ, tà ma ngoại đạo cũng có thiền vậy.

3-Trì danh niệm Phật là muốn đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, nếu đến nhất tâm bất loạn là thiền rồi. Vì nhất tâm bất loạnthiền định, mà tại sao số người đó phải nhờ tha lực, còn thiền thì phải nhờ tự lực? Họ không chịu tự lực, sự thật đâu có ai tu giùm! Phải tự lực tu chứ không phải nhờ người khác hay Phật A Di Đà tu giùm cho mình.

Họ còn không biết đại nguyện của kinh A Di Đà là mình sanh về cõi cực lạc rồi, Phật A Di Đà mới dạy pháp Tổ Sư thiền là “từ nghi đến ngộ”. Bây giờ các vị đồng tham chưa chết mà đã tham Tổ Sư thiền rồi.

Hỏi:
 Diệu dụng công phu Tổ Sư thiền và làm thế nào hành giả đi đúng đường lối Tổ Sư thiền?

Đáp:
 Chỉ cần hỏi và nhìn, hỏi là kích thích niệm không biết gọi là tham thoại đầu, khán là nhìn chỗ không biết, nói chỗ không biết nhưng không có chỗ, vì có chỗ là biết rồi. Không có chỗ là không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn trống rỗng thì không biết gì, chỉ cần giữ cái niệm không biết được kéo dài (nghi tình). Tham thoại đầu và khán thoại đầu là 2 cái đi song song, đó là công phu của Tổ Sư thiền.
 
Đoạn này diễn tả hiện ra cái dụng:

 -Chẳng thể thấy mà hợp logic kia, cần phải nhờ tâm lực cá nhân của chúng ta sẵn có chứng minh, khi chúng ta y theo pháp thiền trực tiếp (Tổ Sư thiền) do Phật Thích Ca truyền dạy, thực hành đến trình độ N tức là đến giai đoạn tự động hóa được một khoảng thời gian khiến 3 thứ biết: Tìm hiểu, tư duy, ghi nhớ được tạm ngưng. Nghĩa là bộ não được ngưng hoạt động thì phát huy được công năng sẵn có, chẳng dùng bộ não mà hoàn thành công tác bộ não chẳng thể làm. Khi ngưng hoạt động của bộ não càng lâu thì độ thiền càng sâu có công năng phát ra càng lớn.

 Tiểu thừa cũng ngưng hoạt động của bộ não, tức là dùng Ngũ Đình Tâm Quán để đình chỉ Tâm, Trung thừaĐại thừa cũng vậy. Nhưng Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa là dùng cái biết để tu, còn Tổ Sư thiền là dùng cái không biết để tu.

Hỏi:
 Lục Diệu Pháp Môn có phải tu bước đầu không?

Đáp:
 Lục Diệu Pháp Môn của thừa nào? Tiểu thừa cũng có Lục Diệu. Nếu là Tổ Sư thiền thì khỏi cần Diệu, chỉ cần hỏi và nhìn tức là hỏi câu thoại đầu cảm thấy không biết và không đi tìm hiểu là đủ rồi. Khi nào kiến tánh rồi tự nhiên sẽ Diệu, nếu chưa kiến tánh có muốn Diệu cũng không được.

Hỏi:
 Hiện tượng cầu hồn cầu cơ của người dân tộc đối với trong Phật pháp phải giải thích như thế nào?

Đáp:
 Trong Phật pháp thì Phật cấm những mê tín dị đoan, cầu hồn, cầu cơ. Nếu dùng những thứ đó để sanh sống thì Phật pháp gọi là tà mạng thực, tức là dùng pháp tà để kiếm ăn.

Hỏi:
 Hành giả tham Tổ Sư thiềnvượt qua 50 thứ ma ngũ ấm không?

Đáp:
 Tại có chấp ngũ ấm là ta nên mới có ma ngũ ấm. Tổ Sư thiền điều thứ nhất trong 10 điều của Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền là phá ngã chấp. Tức là không có ta, vì không có ta nên vô sở đắc, vô sở cầu và vô sở sợ. Ta còn không có thì ngũ ấm cũng không có, ngũ ấm còn không có làm sao có ngũ ấm ma?

Hỏi:
 Con ngườitrí khôn hơn các loài động vật, tu hành sẽ mau thành Phật. Loài động vật nhỏ bé như con kiến, con muỗi, cua, ốc, côn trùng,… với ý thức nhỏ bé có thành Phật không?

Đáp:
 Thành Phật không phải nhờ trí khôn. Chứng Đạo Ca nói: “Ngoại đạo thông minh chẳng trí huệ”. Súc sanh muốn thành Phật phải đầu thai thành người, tức là ngoài con người và các ngoại đạo không thể thành Phật. Chỉ có người tu theo chánh pháp của Phật mới thành Phật.

 Bên ngoài nhìn thấy hành giả tham thiền giống như khờ ngốc, nếu thật sự hành giả tham thiền đến giai đoạn khờ ngốc thì mới hy vọng thành Phật. Vì giữ được công phu tốt nên người ta nói mình như khờ ngốc. Vì vậy không cần phải nhờ trí khôn để tu thành Phật.

Hỏi:
 Pháp thí có thể đổi được tài thí không? Ví dụ có người cho mình nhiều đồ vật, rồi ta đem pháp mà nói cho họ nghe hoặc đem kinh tặng cho họ. Như vậy có thể đổi được đồ vật của họ cho mình không?

Đáp:
 Người hỏi không biết pháp thí là gì! Nếu chấp có pháp để thí cho người thì người đó đã có ngã tướng. Kinh Viên Giác nói: “Cho ta có thuyết pháp là ngã tướng”, mà có sở đắc có sở chứng cũng là ngã tướng.

 Ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng là từ thấp lên cao. Chứng đến thanh tịnh Niết Bàn cũng còn ngã tướng, vì không tham luyến ngũ uẩn ngã, nhưng tham luyến Niết Bàn ngã, cho Niết Bàn là ta chứng, nên vẫn còn ngã.

 Tại có ngã nên mới thấy có người để ta thí pháp, ta thấy có pháp để thí cho người là còn ngã, chứ không phải pháp Niết Bàn.

Hỏi:
 Con nhặt được của rơi, rồi đem cho người bạn dùng. Vậy nhân quả đó ai chịu?

Đáp:
 Nhân quả là “ai làm nấy chịu”, như ăn cơm là “ai ăn nấy no”, không có người khác ăn no giùm cho mình được! Người nào làm người ấy chịu, không phải con làm mà mẹ chịu, không phải mẹ làm con chịu.

Hỏi:
 Tiểu thừa thiềnĐại thừa thiền có phải thuộc về Như Lai thiền không?

Đáp:
 Những pháp thiền do Phật dạy dùng cái biết để tu là Như Lai thiền, như phạm vi thiền thì khác.

 Tiểu thừa thiền là muốn dứt lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Vì Tiểu thừa cho rằng lục căn tiếp xúc lục trần sanh ra phiền não, nên phải dứt lục căn mới hết phiền não. Lục trầnvật chất, theo triết lý gọi là Duy Vật Luận.

 Trung thừa biết dứt lục căn là không đúng, vì muốn dứt lục căn thì phải giữ một niệm, chính một niệm đó gọi là nhất niệm vô minh, cũng từ đó sanh ra phiền não. Nhưng nhất niệm đối với pháp trần thì ở trong nội tâm, nên triết lý gọi là Duy Tâm Luận.

 Đại thừa không dứt lục căn, không dứt nhất niệm vô minh, chỉ cần phá vô thỉ vô minh (căn bản vô minh).

Ngài Nguyệt Khê đã kiến tánh tịch năm 1965, có thí dụ: Nhất niệm vô minhlục căn là vũ khí và binh lính của cướp, vô thỉ vô minh là vua cướp; Đại thừa là dùng vũ khí và binh lính của cướp để bao vây bắt vua cướp.

 Lục căn như vũ khí của cướp, nhất niệm là binh lính của cướp. Nếu tịch thu hết vũ khí, nhưng cũng có thể sắm lại vũ khí, hay giết hết binh lính, nhưng vua cướp còn thì có thể chiêu binh mãi mã lại.

 Cho nên, Đại thừa không tịch thu vũ khí và không giết lính của cướp, mà lại dùng vũ khí và binh lính của cướp để bao vây bắt vua cướp. Vua cướp bắt được rồi thì vũ khí và binh lính của cướp đều trở thành tài sản và lính chính quy của nhà nước, khỏi cần giết chết binh lính. Đó là pháp thiền Đại thừa.

 Tiểu thừa gọi là Duy Vật, Trung thừa gọi là Duy Tâm, Đại thừa gọi là Tâm Vật hợp một, Tổ Sư thiền gọi là Tối Thượng Thừa, không phải tam thừa, còn gọi là Phi tâm phi vật (chẳng phải tâm chẳng phải vật), không có gì hết, trống rỗng.

Hỏi:
 Có người suốt đời làm thiện, khi cuối đời gặp ác duyên. Vậy việc này như thế nào?

Đáp:
 Có người nói: suốt đời không có làm ác, sao tôi bị tai nạn đến hoài?

Tôi hỏi: Ông có ăn cá thịt không? Có giết kiến, giết muỗi không?

Người ấy không trả lời được, vì một bửa cơm đã ăn biết bao nhiêu con cá con tép rồi? Vậy từ nhỏ đến lớn đã ăn hết bao nhiêu chúng sanh? Giết hại hết bao nhiêu chúng sanh? Làm sao nói không có làm ác? Theo nhân quả giết một mạng phải trả một mạng, ăn cục thịt phải trả cục thịt.

Như Lương Võ Đế đã làm việc thiện, nhưng cũng có làm ác, thành ra làm ác thì phải chịu khổ báo, làm thiện thì được phước báo, 2 việc này thì không thể trừ với nhau được. Mà lại nhân quảtam thế, như kiếp trước làm thì kiếp này phải chịu, kiếp này làm thì kiếp sau phải chịu, vì mình không thấy chứ không phải là không có nhân quả.

Hỏi:
 Thế nào là đới nghiệp vãng sanh?

Đáp:
 Có nghiệp nhân phải có nghiệp quả, nhân quả rõ ràng. Nếu muốn được đới nghiệp vãng sanh, mặc dầu nghiệp nhân đã gieo mà được vãng sanh, tức là quả báo kiếp này khỏi đến, nhưng phải có cái nguyện. Tịnh Độđại nguyện và tiểu nguyện.
 
Nếu tiểu nguyện cầu một mình mà được vãng sanh thì không hợp nhân quả, vì ăn cục thịt phải trả cục thịt, giết một mạng phải trả một mạng, nên phải đi đầu thai để trả nợ, chứ không được vãng sanh.

Còn đại nguyện như mình thiếu nợ mà không có tiền để trả, thiếu tiền rất nhiều, nhưng mình có trương mục ngân hàng, tiền ở ngân hàng có ít không đủ trả nợ, mình có thể ký kỳ phiếu là 10, 20 năm sau trả. Người tu Tịnh Độ được vãng sanh rồi mới trả, việc ấy giống như kỳ phiếu cũng gọi là đại nguyện.

Phát đại nguyện là cùng tất cả chúng sanh đều được vãng sanh, phải thực hành đại nguyện là coi chúng sanh bình đẳng, khi đã được vãng sanh rồi thành Phật thì những chúng sanh chủ nợ thịt chủ nợ mạng được ưu tiên độ trước. Như mình mỗi ngày gởi tiền vào ngân hàng thì sau này người ta cầm kỳ phiếu đến ngân hàng mới lãnh được tiền.

Phát đại nguyện mà không thực hành đại nguyện của mình phát, còn ăn thịt chúng sanh, giết chết chúng sanh, tức là mỗi ngày không gởi tiền vô ngân hàng thì sau này người ta đến ngân hàng lãnh không có tiền, như thế là ngân phiếu giả, ở thế gian phải bị tù, làm sao có công đức để được vãng sanh? Vì chỉ miệng nói tâm nghĩ nhưng không thực hành, gọi là nguyện giả.

 Được đới nghiệp vãng sanh đâu phải dễ! Thực hành được đại nguyện cũng không phải dễ! Nói dễ là tham thiền mới thật là dễ, chỉ cần hỏi và nhìn, ngoài ra không cần biết đến cái gì hết, chỉ giữ cái không biết là đủ.

Hỏi:
 Người tu Tổ Sư thiền có cần phát đại nguyệnhồi hướng đến quả Vô thượng Bồ đề không?

Đáp:
 Người hỏi này không biết lại chấp cái biết của mình và theo giáo môn cũng còn không biết. Kinh Đại Niết Bàn thuộc về giáo môn có 3 cửa giải thoát: Không, vô tướng, vô nguyện.

 -Vô nguyện là không có nguyện, nếu còn ôm cái nguyện thì không được kiến tánh, vì tâm như hư không vô sở hữu (trống rỗng) là giải thoát, không bị trói buộc, nó đã sẵn như vậy. Chỉ cần phát hiện vốn không có sanh tử, vốn không có trói buộc thì đâu cần nguyện gì nữa!

 Nếu có nguyện tức là còn có trói buộc, những người có bệnh chấp thì còn trói buộc, nên mới có cái nguyện để mở trói. Tổ Sư thiền ngộ thấy không có trói, vì trống rỗng. Ngộ không có trói thì đã giải thoát rồi, đâu phải là bị trói rồi mới mở trói cho là giải thoát! Vậy đâu cần mở trói, vì đâu có ai trói!

Hỏi:
 Có phải tất cả chiêm bao đều là giả không? Và chuyện nàng dâu châm kim thêm 19 lần cho bà mẹ chồng như lời nhắc nhở trong mộng, khi bà nằm ngủ. Vậy chuyện này chiêm bao hay không phải chiêm bao?

Đáp:
 Người hỏi này không biết, nên Phật nói “rất đáng thương xót!”. Chân tâmbất nhị thì không có tương đối. Họ bỏ chấp thật lại chấp giả, nếu chấp thật thì bệnh còn dễ trị, chấp giả thì bệnh khó trị hơn. Vì thật và giả là tương đối, chấp thật và chấp giả đều lọt vào biên kiến. Biên kiến ở trong Phật pháp là một thứ trong 5 thứ ác kiến, nhưng chính người hỏi lại không biết, thành ra mới đặt ra câu hỏi vậy.

 Đã là chiêm bao thì không có thật, chơn thật không phải thật, cái giả cũng không phải thật. Vì chiêm bao đâu có cái nào thật, đâu có cái nào giả? Thật không thành lập làm sao lập ra cái giả?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32587)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12034)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12581)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34446)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10587)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10340)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7004)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11405)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20534)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13103)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13854)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant