Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI BỒ TÁT TẠI GIA

22 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11150)
NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI BỒ TÁT TẠI GIA

NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI BỒ TÁT TẠI GIA

A. PHẦN MỞ ĐẦU

Chung với Bồ tát xuất gia. Nhưng lúc truyền giới, Bồ tát tại gia được truyền trước, Bồ tát xuất gia sau, hoặc ngược lại, hoặc giới sư được phân làm hai ban, một ban truyền giới xuất gia, một ban truyền giới tại gia, tại chánh điện (cho xuất gia) và tại giảng đường (cho tại gia).

I. TẠI NHÀ PHƯƠNG TRƯỢNG HOẶC TẠI TĂNG ĐƯỜNG
LỄ THỈNH SƯ

1. Vị dẫn thỉnh: Sau khi nghe ba tiếng chuông báo hiệu giờ truyền giới bắt đầu, khoảng mười phút, vị dẫn thỉnh đánh ba hồi khánh và bốn tiếng, xướng rằng:

Cung thỉnh chư Tôn đức an tọa.

Chư giới tử cầu thọ Bồ tát giới tựu ban.

(Xuất gia trước, tại gia sau).

2. Đại diện giới tử tác bạch cầu thỉnh Giới sư.

Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật; Ngưỡng bạch chư Tôn đức, chúng con có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch (tất cả đồng lễ một lạy, quỳ bạch):

Ngưỡng bạch chư Tôn đức, chúng con là...bấy lâu có lòng khát ngưỡng Giới pháp Bồ tát, hôm nay gặp đủ duyên lành, chúng con thành tâm đảnh lễ thỉnh chư Tôn đức, không quản lao nhọc, đăng đàn truyền cho chúng con Giới pháp Bồ tát (xuất giatại gia). Cúi xin chư Tôn đức ai mẫn hứa khả để chúng con được ân triêm công đức (Bạch ba lần).

3. Lời hứa khả của giới sư. Giới sư đáp rằng:

Lành thay, để truyền thừa sự nghiệp của đức Phật, chư Tôn đức hiện tiền đều hoan hỷ hứa khả.

4. Đại diện giới tử bạch.

Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật; trên chư Tôn đức đã từ bi hứa khả cho rồi, chúng con xin đầu thành đảnh lễ cúng dường, tam bái (đồng lạy ba lạy).

5. Thỉnh chư Tôn đức lên Tổ đường. Dẫn thỉnh xướng:

Chư giới tử xuất ban.

Cung thỉnh chư Tôn đức tề nghệ tổ đường.

(Đoàn cung thỉnh gồm có tàn, lọng, bê tích, khánh pháp hiệu, ngũ âm... dẫn đầu, giới tử quì hai hàng từ tăng đường đến tổ đường).

II. TẠI TỔ ĐƯỜNG

1. Giới sưgiới tử lễ Tổ. Dẫn thỉnh xướng:

Cung thỉnh chư Tôn đức lập ban, niêm hương cáo Tổ (Niệm hương xong, xướng lễ Tổ) :

Nhất tâm đảnh lễ Tây thiên Đông độ Việt Nam lịch đại chư vị Tổ sư Hòa thượng, tam bái (Xướng sau khi đã niêm hương.

Cung thỉnh chư Tôn đức phân lập lưỡng ban.

Chư giới tử bồ tát tựu ban.

Nhất tâm đảnh lễ Tây thiên Đông độ Việt Nam lịch đại chư vị Tổ sư Hòa thượng, tam bái (giới tử đồng lễ).

2. Thỉnh chư Giới sư lên chánh điện.

Chư giới tử thối ban (giới tử và đoàn cung nghinh tiếp tục cung nghinh giới sư lên chánh điện).

Cung thỉnh chư Tôn đức tề nghệ Tam bảo tiền.

III. TẠI CHÁNH ĐIỆN

1. Lễ niêm hương bạch Phật. Dẫn thỉnh xướng:

Cung thỉnh chư Tôn đức lập ban.

Chư giới tử tựu ban.

Chư giới tử! Hồ quì, hiệp chưởng.

Khởi bát nhã chung cổ.

Cung thỉnh Giới sư niêm hương bạch Phật cầu gia bị.

2. Giới sư đảnh lễ (giới tử vẫn quì)

Sau khi giới sư niêm hương, dẫn thỉnh xướng lễ:

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương thường trụ chư Phật (1 lạy, đại chúng đồng lạy nếu chỗ rộng, không thì chỉ xá).

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương thường trụ Tôn pháp (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương thường tru Hiền thánh tăng (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đạo tràng giáo chủ Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Phạm võng giáo chủ Lô xá na Phật (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Thiên hoa đài thượng thiên bách ức hóa thân Thích ca Mâu ni Phật (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng nhất thiết chư Phật (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng nhất thiết Tôn pháp (1 lạy)..

Nhất tâm đảnh lễ Đại trí Văn thù sư lợi Bồ tát (1 lạy)..

Nhất tâm đảnh lễ Đại hạnh Phổ hiền vương Bồ tát (1 lạy)..

Nhất tâm đảnh lễ Đại từ Di lặc Bồ tát (1 lạy)..

Nhất tâm đảnh lễ Bổn tôn Địa tạng vương Bồ tát (1 lạy)..

Nhất tâm đảnh lễ Chư vị hộ pháp Bồ tát (1 lạy)..

3. Tán hương. A xà lê cử tán:

Nhất trần tài nhiệt

Hải tạng viên thâu

Hà sa chư Phật hiện mao đầu

Xứ xứ tiện quy hưu

Hương ái sư phù

Tâm địa giới châu lưu.

Nam mô Hương vân cái Bồ tát.

4. Thỉnh chư Tôn đức thăng tòa. Dẫn thỉnh xướng:

Chư giới tử! Hồ quỳ, hiệp chưởng (Dẫn thỉnh quỳ phía hữu, phía để chuông gia trì, quay mặt vào giữa, chấp tay, xướng rằng:)

Nhất chú chiên đàn hương

Cử khởi biến thập phương

Thỉnh sư đăng bảo tọa

Bỉnh pháp quảng tuyên dương.

(Giới sư thăng tòa. Có thể chia thành hai ban, nếu giới tử đông. Một ban ở tại chánh điện truyền giới bồ tát xuất gia. Một ban khác được cung thỉnh ra giảng đường truyền giới bồ tát tại gia).

Dẫn thỉnh đứng lên, xướng:

Chư giới tử! Khởi thân, chí thành đảnh lễ tam bái.

Chư giới tử, xuất ban.

Vị dẫn thỉnh về chỗ cùng ngồi như chư Tôn đức.

 

B. PHẦN TRUYỀN GIỚI BỒ TÁT

1. Khai luật kệ

Giới sư chủ đàn đứng dậy, cầm thủ lư cử tụng:

Nguyện thử hương hoa vân

Biến mãn thập phương giới

Nhất thiết chư Phật độ

Vô lượng hương trang nghiêm

Cụ túc bồ tát đạo

Thành tựu Như lai hương.

Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.

Khai luật kệ

Vô thượng thậm thâm Tỳ ni pháp

Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì

Nguyện giải Như lai Tỳ ni nghĩa.

Giới sư chủ đàn để thủ lư xuống bàn, ngồi kiết già an tọa.

I. HỌP TĂNG KIẾT TIỂU GIỚI

1. Họp tăng:

Yết ma a xà lê vỗ thủ xích, hỏi rằng:

Đại đức tăng đã họp đông đủ chưa?

Tăng đã họp (dẫn thỉnh đáp).

Hòa hiệp không ?

Hòa hiệp.

Người chưa thọ giới bồ tát đã ra chưa ?

Đã ra.

Các tỳ kheo không đến họp có thuyết dục không ?

Không.

Tăng hòa hiệp hội họp để làm gì ?

Vì người hảo tâm, yết ma truyền bồ tát đại giới.

2. Kết tiểu giới: (Nếu gặp chỗ chưa kiết giới. Chỗ đã kiết giới rồi thì không cần) Yết ma a xà lê bạch rằng:

Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng nay họp một chỗ, kiết tiểu giới, nếu Tăng phải thời mà đến, Tăng thuận cho, kiết tiểu giới, bạch như thế. Tác bạch có thành không?

Thành (chúng tăng đồng đáp).

Đại đức Tăng lắng nghe, Tăng nay họp một chỗ, kiết tiểu giới, các Trưởng lão có bằng lòng thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Yết ma có thành không?

Thành (chúng tăng đồng đáp).

Tăng đã bằng lòng kiết tiểu giới xong, Tăng bằng lòng cho nên im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy (tất cả đồng chấp tay cúi đầu xá).

II. TRUYỀN GIỚI BỒ TÁT TẠI GIA

1. Giới tử tựu ban, đảnh lễ. Dẫn thỉnh đánh khánh xướng:

Giới tử cầu thọ giới bồ tát tại gia tựu ban (nam phía trái, nữ bên phải).

Các giới tử hãy nghe tôi xướng và theo mỗi tiếng chuông, chí thành đảnh lễ.

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương thường trụ chư Phật (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương thường trụ Tôn pháp (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương thường trụ Hiền thánh tăng (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đạo tràng giáo chủ Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Phạm võng giáo chủ Lô xá na Phật (1 lạy)..

Nhất tâm đảnh lễ Thiên hoa đài thượng thiên bách ức hóa thân Thích ca Mâu ni Phật (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng nhất thiết chư Phật (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng nhất thiết Tôn pháp (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đại trí Văn thù sư lợi Bồ tát (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đại hạnh Phổ hiền vương Bồ tát (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đại từ Di Lặc Bồ tát (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Bổn tôn Địa tạng vương Bồ tát (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng chư tôn Bồ tát (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Lịch đại chư vị Tổ sư Bồ tát (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ A xà lê Hòa thượng (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Yết ma A xà lê (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Giáo thọ A xà lê (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Thất vị tôn chứng sư (1 lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Hiện tiền chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức tăng già (1 lạy).

2. Hướng dẫn giới tử thỉnh sư. Dẫn thỉnh xướng và hướng dẫn:

Chư giới tử, Hồ quỳ, Hiệp chưởng.

Các giới tử, các vị đã nhất tâm đảnh lễ chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ và liệt vị Giới sư. Giờ này, để khỏi bỡ ngỡ trong khi nói lời tác bạch cần cầu được truyền trao Đại giới bồ tát, các giới tử hãy nói lặp lại theo lời tôi hướng dẫn sau đây:

Đại đức nhất tâm niệm, đệ tử pháp danh là... cầu xin Đại đức truyền trao cho tất cả tịnh giới Bồ tát. Cúi xin Đại đức không vì mệt nhọc, thương tưởng, hứa khả lời thỉnh cầu của chúng con (Bạch ba lần theo tiếng khánh, ba lần cúi đầu lễ bái).

Giới sư đáp rằng:

Lành thay! Chư Tôn đức đều hoan hỷ hứa khả.

3. Khai đạo giới tử. Giáo thọ sư dạy bảo các giới tử rằng:

Này các giới tử! Nên biết rằng theo tiếng Phạn, Giới được gọi là Ba la đề mộc xoa, dịch là bảo giải thoát, có nghĩa là giới thường bảo hộ người tu hành giải thoát sinh tử đạt đến vô thượng bồ đề. Bởi thế, Giới là vị đạo sư của quả vị Tối thượng bồ đề, là đường tắt vào Vô thượng đại niết bàn. Quá khứ chư Phật nhờ giới mà thành đạo. Hiện tại chư Phật lấy giới để độ sinh. Vả lại, người tu hành sẽ nhờ giới mà được giải thoát. Giới là nền tảng của thiền định và trí huệ. Muôn đức trang nghiêm, giới là căn bản. Vì thế, kinh có nói rằng: Giới như đất bằng, muôn giống lành từ nơi đất mà sinh. Giới như vị lương y hay trị ba độc tham, sân, si. Giới như thuyền bè đưa người qua bể khổ. Giới như chuỗi anh lạc để trang nghiêm pháp thân. Nhưng giới này có ba thứ: một là giới tại gianăm giới và tám giới; hai là giới xuất giamười giới và 250 giới; ba là đạo tục thông hành giới, là bồ tát tam tụ tịnh giới, là giới mà các Phật tử sắp lãnh thọ.

Thế nào là tam tụ tịnh giới?

1. Nhiếp luật nghi giới: không làm các điều ác, để cầu chứng pháp thân.

2. Nhiếp thiện pháp giới: làm mọi việc lành để cầu chứng báo thân.

3. Nhiêu ích hữu tình giới: làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh, để cầu chứng hóa thân.

Giới thể tuy một, nhưng vì nhân duyên của các hàng xuất giatại gia không giống nhau nên sự hành trì do đó có khác. Tức là phân biệtxuất gia bồ táttại gia bồ tát giới.

Giới pháp tại gia bồ tát này do đức Thích Tôn vì thương tưởng các hàng tại gia bị nhiều trần duyên trói buộc, nhưng đã dõng mãnh phát bồ đề tâm, cầu thành Phật đạo, hộ trì chánh pháp vĩnh viễn trường tồn, giáo hóa chúng sanh tu hành thiện nghiệp, nên Ngài đã phương tiện khai thị trong kinh Ưu ba tắc giới.

Giới pháp này chính là căn bổn của hết thảy thiện pháp. Nếu ai thành tựu được giới pháp như vậy, chẳng những sẽ chứng đắc tu đà hoàn quả cho đến a na hàm quả, mà còn sẽ dẫn đến bồ tát đạo. Nếu ai phá giới này sẽ bị đọa lạc trong ba ác đạo.

Giới pháp này là bất khả tư nghì. Vì sao vậy? Vì người đã thọ giới pháp này tuy là tại gia hưởng thọ ngũ dục mà không bị chướng ngại các thánh đạo.

Các giới tử! Các người có phải vì thương tưởng hết thảy chúng sanhcầu thọ giới pháp này chăng?

Bạch Hòa thượng, chính phải (giới tử đáp).

4. Hỏi về già nạn.Về các già nạn, giáo thọ sư lại hỏi tiếp rằng:

Các giới tử! Để được thọ giới Bồ tát, các giới tử phải không có bảy tội chướng. Bây giờ tôi hỏi các vị, các vị cứ như sự thật mà đáp.

1. Nay Phật không còn ở đời, nhưng những hành động moi khoét tượng Phật, phá chùa hoại tháp đều đồng loại với tội làm thân Phật ra máu. Phật tửphạm tội này không?

- Mô Phật, không (giới tử đáp).

2. Phật tử có giết cha không ?

- Mô Phật, không.

3. Phật tử có giết mẹ không ?

- Mô Phật, không.

4. Phật tử có giết Hòa thượng không ?

- Mô Phật, không.

5. Phật tử có giết A la hán không ?

- Mô Phật, không.

6. Phật tửphá Yết ma tăng không ?

- Mô Phật, không.

7. Phật tử có giết thánh nhân tăng không ?

- Mô Phật, không.

Dẫn thỉnh xướng:

Khởi thân đảnh lễ tam bái (giới tử lễ ba lạy)

Hồ quỳ, hiệp chưởng.

5. Giới sư thỉnh PhậtBồ tát làm thập sư.

Giới sư hướng dẫn giới tử thỉnh PhậtBồ tát làm Thập sư, để cầu giới. Giới sư dạy rằng:

Các giới tử, các vị đã không có các già nạn, tức các vị có thể thọ lãnh giới Bồ tát. Bây giờ các vị phải hết lòng cầu thỉnh Phật Thích Ca làm Hòa thượng, Bồ tát Văn ThùDi Lặc làm A xà lê, mười phương Như lai làm Tôn chứng sư, mười phương Bồ tát là bạn lữ đồng học. Các vị hãy nhất tâm lặp lại theo lời tôi hướng dẫn để cầu thỉnh.

Đệ tử pháp danh là... Nhất tâm phụng thỉnh Nam mô Thích Ca Như Lai vì con làm Hòa thượng. Con nương theo Hòa thượng để được thọ giới tại gia Bồ tát, xin thương xót chúng con (ba lần thỉnh, ba lần cúi đầu xá).

Đệ tử pháp danh là... Nhất tâm phụng thỉnh Văn Thù Sư Lợi Bồ tát vì con làm Yết ma A xà lê. Con nương theo A xà lê để được thọ giới tại gia Bồ tát, xin thương xót chúng con (ba lần thỉnh, ba lần cúi đầu xá).

Đệ tử pháp danh là... Nhất tâm phụng thỉnh Di Lặc Bồ tát vì con làm Giáo thọ A xà lê. Con nương theo A xà lê để được thọ giới tại gia Bồ tát, xin thương xót chúng con (ba lần thỉnh, ba lần cúi đầu xá).

Đệ tử pháp danh là... Nhất tâm phụng thỉnh Thập phương Như Lai vì con làm Tôn chứng. Con nương theo các đức Như lai để được thọ giới tại gia Bồ tát, xin thương xót chúng con (ba lần thỉnh, ba lần cúi đầu xá).

Đệ tử pháp danh là... Nhất tâm phụng thỉnh Thập phương chư đại Bồ tát vì con làm bạn lữ đồng học. Con nương theo các Bồ tát để được thọ giới tại gia Bồ tát, xin thương xót chúng con (ba lần thỉnh, ba lần cúi đầu xá).

Hướng dẫn giới tử đảnh lễ, Dẫn thỉnh xướng:

Khởi thân đảnh lễ chư Phật, chư Đại Bồ tát, tam bái.

Hồ quỳ, hiệp chưởng.

6. Giới sư thay giới tử bạch xin giới.

Hướng dẫn giới tử thỉnh, Giới sư dạy rằng:

Các giới tử, nay tôi lại hướng dẫn các vị cầu xin giới Bồ tát tại gia. Các vị hãy lặp lại theo lời tôi nói.

Chúng con pháp danh là... thành tâm cầu xin chư Đại đức thương xót trao cho chúng con tất cả tịnh giới Bồ tát tại gia (ba lần thỉnh, ba lần cúi đầu xá).

Lành thay! Hiện tiền chư tôn đức đều hứa khả (Lời đáp của giới sư).

8. Khuyên phát Bồ đề tâm

Giới sư dạy rằng:

Các giới tử! Các vị muốn cầu giới pháp, các vị hãy chuyên tâm, thành kính hướng về cảnh giới thanh tịnh, chớ có vọng tưởng đến cảnh khác. Hãy khởi tâm suy nghĩ như thế này: Tôi nay không bao lâu sẽ được đại công đức tạng không lường, không cùng, không có công đức nào hơn giới pháp này.

Các giới tử! Các vị nên biết, muốn thọ giới Bồ tát cần phải phát Bồ đề tâm. Bồ đề tâm là tâm đại đạo. Thế nào gọi là tâm đại đạo? Nghĩa là tâm thật rộng lớn, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ tất cả chúng sanh, đó là đại đạo tâm. tức là Phật tâm. Vì muốn cầu Phật đạo, hàng Bồ tát phát tâm không hạn lượng, phụng thờ cúng dường không những chỉ một đức Phật, hai đức Phậtcho đến trăm ngàn đức Phật ở khắp mười phương vô tận thế giới, hư không giới, để cầu nhứt thiết trí, thành tựu không lường trăm ngàn pháp môn. Lại vì cứu độ chúng sanh, hàng Bồ tát phát tâm không hạn lượng, không những chỉ độ chúng sanh trong một thế giới, hai thế giớicho đến độ thoát tất cả chúng sanh khắp mười phương vô tận pháp giới, hư không giới. Đó là hai mục đíchBồ tát phát tâm Bồ đề. Người phát tâm và lập nguyện như thế chính là Bồ tát. Trong giờ phút trang nghiêmthanh tịnh này, các vị đã phát tâm như thế chưa?

Giới tử đáp: Mô Phật đã phát.

Giới sư dạy rằng:

Các giới tử! Bồ tát mới chỉ phát tâm bồ đề thôi mà đã có căn lành, công đức không hạn lượng. Vì sao? Vì Bồ tát này không dứt chủng tánh Như lai, vì do phát tâm mà hàng Bồ tát được tất cả chư Phật trong đời thường nhớ tưởng, hộ niệm và sẽ được Vô thượng bồ đề của tất cả chư Phật trong ba đời đồng thời cũng được nhập vào thể tánh bình đẳng như tất cả chư Phật. Bởi thế, ngay lúc phát tâm bồ đề liền được tất cả Như lai khen ngợi, liền được trừ diệt tất cả khổ trong các ác đạo; liền có thể sẽ được thanh tịnh quốc độ Phật, và được chủng tánh Phật, rồi đây các Phật tử sẽ ở trong các thế giới, sẽ thị hiện làm Phật.

Các giới tử! Các vị có phải là Bồ tát không?

Giới tử đáp: Mô Phật, phải.

Giới sư lại hỏi tiếp: Các giới tử đã nguyện phát tâm bồ đề chưa?

Giới tử đáp: Mô Phật, đã phát tâm bồ đề.

Dẫn thỉnh đánh khánh xướng: khấu thủ.

9. Gạn hỏi pháp thọ giới

Giới sư hỏi rằng:

Các giới tử! Hãy lắng nghe tôi hỏi. Trong giờ phút trang nghiêm thanh tịnh này, các vị muốn nương nơi tôi để thọ tất cả học xứ của bồ tát, thọ tất cả tịnh giới của Bồ tát; đó là nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giớinhiêu ích hữu tình giới. Học giới như thế, tịnh giới như thế, quá khứ tất cả Bồ tát đều đã đầy đủ, vị lai tất cả Bồ tát đều sẽ đầy đủ; hiện tại tất cả Bồ tát đều có đầy đủ. Học xứ này, tịnh giới này, quá khứ tất cả Bồ tát đã học; vị lai tất cả Bồ tát sẽ học; hiện tại tất cả Bồ tát đang học. Các vị có thể thọ trì được không?

Giới tử đáp: Mô Phật, thọ được (ba lần hỏi đáp, ba lần đánh khánh, khấu thủ).

10. Thọ bốn tín tâm bất hoại

Giới sư dạy bảo rằng:

Các giới tử! Trong giờ phút này, các vị còn phải thọ bốn điều tin kiên cố, kinh gọi "tứ bất hoại tín". Các vị hãy lặp lại theo lời tôi hướng dẫn và hãy chí thành lãnh thọ:

Đệ tử pháp danh là... từ thân này cho đến thân cùng tột đời vị lai, nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y chánh pháp giới (ba lần lặp lại, ba lần cúi đầu xá).

11.Sám hối tội trong ba đời. Giới sư dạy bảo rằng:

Các giới tử! Các vị đã thọ bốn đức tin kiên cố rồi. Giờ này trước Tam Bảo các vị nên sám hối tội lỗi trong ba đời. Các vị hãy lặp lại lời tôi nói:

Đệ tử pháp danh là... nếu trong quá khứ thân, khẩu, ý đã tạo mười điều tội ác thì hôm nay nguyện cùng tận đời vị lai không bao giờ sinh khởi tái phạm (ba lần lặp lại, ba lần cúi đầu xá).

Đệ tử pháp danh là... nếu đời hiện tại thân, khẩu, ý đã tạo mười điều tội ác thì hôm nay nguyện cùng tận đời vị lai không bao giờ sinh khởi (ba lần lặp lại, ba lần cúi đầu xá).

Đệ tử pháp danh là... nếu đời vị lai thân, khẩu, ý tạo mười điều tội ác thì hôm nay nguyện cùng tận đời vị lai không bao giờ sinh khởi (ba lần lặp lại, ba lần cúi đầu xá).

Giới sư lại dạy tiếp:

Các giới tử! Các vị cần phải dốc lòng cần cầu sám hối các tội lỗi. Hãy lặp lại lời tôi hướng dẫn:

Xưa con đã tạo các ác nghiệp

Đều do vô thỉ tham, sân, si

Từ thân, miệng, ý phát sinh ra

Tất cả con đều xin sám hối.

Nam mô Cầu sám hối Bồ tát Ma ha tát (ba lần cúi đầu xá).

Dẫn thỉnh xướng:

Khởi thân, chí thành đảnh lễ Tam Bảo tam bái.

Hồ quỳ, hiệp chưởng.

12. Khuyên phát nguyện rộng lớn.Giới sư khuyên dạy rằng:

Các giới tử! Các vị đã sám hối rồi, ba nghiệp đều thanh tịnh, như bình lưu ly trong sạch, trong ngoài sáng chói. Bây giờ, các vị nên đối với bốn chân lý khổ, tập, diệt, đạo, phát bốn lời thệ nguyện rộng lớn.

Thế nào là khổ đế? Khổ là các thứ quả báo mà tất cả chúng sinh trong lục đạo đều phải gánh chịu. Bồ tát thấy thế liền phát nguyện cứu độ tất cả chúng sinh thoát ly khổ quả. Tức là chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.

Thế nào là tập đế? Tập là những phiền não vọng tưởng mà tất cả chúng sinh đã tích lũy từ vô thỉ kiếp đến nay, để chiêu cảm vô lượng quả khổ ở vị lai, xoay vần trong ba cõi, không hẹn ngày ra khỏi. Bồ tát thấy thế liền phát nguyện cứu độ tất cả chúng sinh bằng cách diệt trừ thoát ly tất cả phiền não nghiệp cảm. Tức là phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

Thế nào là diệt đế? Đây là niết bàn vắng lặng. Tất cả chúng sinh vì không biết tu hành theo chánh pháp nên không chứng được niết bàn không sinh không diệt của chư Phật Như lai. Bồ tát thấy thế liền phát nguyện chóng thành Phật đạo để hóa độ chúng sanh. Tức là Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Thế nào là đạo đế? Đây là con đường, là phương pháp tu chân chính để được giải thoát. Tất cả chúng sinh vì không biết tu tập chánh pháp Cho nên, phải trôi lăn trong sáu đường không thể vào được an lạc, tư tại. Bồ tát thấy thế liền tuyên dương vô lượng pháp môn để giáo hóa chúng sanh tu học. Tức là pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

Bốn chân lý mà tôi vừa trình bày, là nơi nương tựa cho bốn thệ nguyện rộng lớn. Các giới tử phải nhất tâm phát bốn lời thệ nguyện rộng lớn bằng cách lặp lại theo lời tôi hướng dẫn.

Đệ tử pháp danh là... dốc lòng phát nguyện: chúng sanh không số lượng thệ nguyện đều độ thoát, phiền não không cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch, pháp môn không số kể thệ nguyện đều tu học, Phật đạo không gì hơn thệ nguyện đều viên thành.

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền vương Bồ tát (3 lần, 3 lần cúi đầu xá).

13. Khải bạch yết ma

Giới sư dạy bảo:

Các giới tử! Các vị đã phát nguyện rộng lớn rồi, tôi nay vì các vị mà khải bạch Tam Bảo chứng minh cho các vị thọ giới. Vậy các vị nên nhất tâm lắng nghe để ý suy nghĩ kỹ.

Nên biết rằng: Bạch yết ma lần thứ nhất rồi, giới pháp tốt lành to lớn trong mười phương thế giới, do năng lực tâm nghiệp cảm cách của quý vị mà thảy đều chấn động. Bạch yết ma lần thứ hai rồi, pháp giới tốt lành to lớn trong mười phương thế giới, như mây như lọng che trên đảnh các vị. Bạch yết ma lần thứ ba xong, pháp giới tốt lành to lớn trong mười phương thế giới từ đảnh môn quý vị chảy vào trong thân tâm các vị, sẽ được chánh báo tốt đẹp đầy đủ, cùng tột đời vị lai, hằng tiếp nối làm giống Phật.

Đây là giới thể vô tác, đạo pháp vô lậu do chỗ cơ cảm tăng thượng thiện tâm của quý vị mà thành tựu. Bởi thế, quý vị phải chí thành cúi đầu thọ lãnh.

14. Chính thức bạch yết ma

Giới tử vẫn quì như cũ. Giới sư đến trước tượng Phật quán tưởng Thập phương Tam bảo, cầm ba nén hương quì bạch rằng:

Ngưỡng bạch chư Phật, chư Bồ tát trong mười phương vô biên thế giới, trong đạo tràng này, các Phật tử đã ba lần cầu xin giới sư chúng con cho thọ giới Bồ tát tại gia. Con đã tác chứng cho các giới tử. Cúi xin chư Phật, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh tăng trong mười phương pháp giới từ bi chứng giám cho các giới tử tại đạo tràng này được thọ giới Bồ tát tại gia (3 lần bạch, 3 lần cúi đầu xá).

15. Dặn bảo tồn giữ giới pháp

Sau khi bạch Phật, trở về chỗ, Giới sư dặn bảo giới tử rằng:

Các giới tử! Từ trước đến đây, chư Tôn đức đã cung đối trước chư Phật, chư Bồ tát, đã ba lần bạch yết ma.

Ở trong Thánh chúng, đức Thích cadặn bảo như thế này: Đại chúng hãy lắng nghe, ở trong thế giới ta bà này, cõi nước Việt Nam này, có Phật tử pháp danh là...cầu thọ tịnh giới Bồ tát. Vì Phật tử này không thầy, tôi rất xót thương, xin đứng làm thầy. Trong giờ phút này, mười phương các đức Như lai nghĩ tưởng các vị là con, các Đại bồ tát nghĩ tưởng các vị là em. Nhờ lòng từ bi thương tưởng của chư Phật, chư Bồ tát, từ nay cho đến về sau, các vị sẽ được tăng trưởng công đức, thiện căn không bao giờ mất. Các vị hãy tinh chuyên nhớ nghĩ bền giữ không phạm, để giới thể tròn đầy, trọn không lùi sụt, cho đến ngày chứng quả bồ đề, thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Các vị có đầy đủ tất cả chủng trí thần thông diệu dụng, không lường các pháp môn, để đi khắp trong mười phương rộng độ chúng sanh lòng không mỏi mệt.

Dẫn thỉnh xướng:

Khấu thủ (giới tử cúi đầu xá).

16. Truyền sáu trọng pháp.

Để truyền sáu trọng pháp, Giới sư dạy rằng:

Các giới tử! Hãy lắng nghe cho kỹ, Bồ tát tại gia có sáu trọng pháp, nếu người nào thọ giới rồi mà phạm là không phải hạnh bồ tát, sẽ mất 42 quả vị hiền thánh. Các vị hãy lắng nghe và lãnh thọ:

1. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được sát sanh. Các Phật tử giữ được không?

- Mô Phật, giữ được (giới tử đáp, cúi đầu xá).

2.Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được trộm cắp. Các Phật tử giữ được không?

- Mô Phật, giữ được (giới tử đáp, cúi đầu xá).

3. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được tà dâm. Các Phật tử giữ được không?

- Mô Phật, giữ được (giới tử đáp, cúi đầu xá).

4. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được nói dối. Các Phật tử giữ được không?

- Mô Phật, giữ được (giới tử đáp, cúi đầu xá).

5. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được nói lỗi của người tại giaxuất gia. Các Phật tử giữ được không?

- Mô Phật, giữ được (giới tử đáp, cúi đầu xá).

6. Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được bán rượu, nấu rượu. Các Phật tử giữ được không?

- Mô Phật, giữ được (giới tử đáp, cúi đầu xá).

17. Khuyên học và giữ 28 giới khinh.

Giới sư truyền dạy:

Các giới tử! Vừa rồi, tôi đã trao cho các Phật tử sáu trọng pháp, còn hai mươi tám tội thất ý các Phật tử phải học mới biết và giữ gìn không được phạm. Tiếp theo đây, tôi nói về 28 tội thất ý này, các Phật tử hãy lắng nghe.

1. Không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

2. Say đắm rượu chè, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

3. Cố ý gớm ghê không chăm sóc người bệnh khổ, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

4. Gặp người hành khất, không nhiều thì ít, phải tùy tâmbố thí, nếu để người hành khất về không, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

5. Nếu thấy tỳ kheo, tỳ kheo ni, trưởng lão, bậc tôn đức, ưu bà tắc, ưu bà di... không đứng dậy nghinh tiếp hỏi thăm, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

6. Nếu thấy tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di hủy phạm giới đã thọ, sinh tâm kiêu mạn, rồi nói rằng: Ta hơn người kia, người kia không bằng ta..., đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

7. Trong mỗi tháng có sáu ngày trai, nếu không đi thọ bát quan trai giới, không cúng dường Tam bảo, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

8. Trong khoảng tám mươi dặm, nơi có thuyết pháp mà không đến nghe, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

9. Thọ dụng vật của thường trụ tăng như ngọa cụ, giường, tòa ngồi, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

10. Nghi trong nước có vi trùng nhưng vẫn tùy tiện dùng, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

11. Không có bạn mà vẫn một mình đi vào nơi hiểm nạn, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

12. Một mình ngủ lại tại chùa ni nếu là ưu bà tắc, hoặc chùa tăng nếu là ưu bà di, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

13. Vì của cải, thân mạng mà đánh mắng người giúp việc, trẻ con hầu hạ hoặc người ngoài..., đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

14. Nếu đem thức ăn dư thừa dâng cúng tỳ kheo, tỳ kheo ni hoặc cung cấp cho người đồng giới, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

15. Nếu nuôi những loài ăn thịt như mèo, chồn..., đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

16. Có các loài vật như voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà... nếu không làm phép tịnh thí mà cho những người chưa thọ giới, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

17. Nếu không sắm cất các thứ y bát tích trượng ngọa cụ (để phòng khi cần cúng dường cho vị xuất gia thọ bồ tát giới), đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

18. Nếu vì nuôi thân mạng mà cần làm ruộng, nhưng không tìm nước trong (để tưới..). và đất ruộng cũ (để trồng trọt), đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

19. Nếu vì nuôi thân mạng mà mở phố buôn bán, cân đong hàng hóa; không được đã thỏa thuận giá cả rồi lại đem bán cho người trả giá cao hơn; cân đấu dùng để cân đong hàng hóa phải đúng mức quy định, nếu chưa đúng mức phải bảo sửa chữa lại, không làm như vậy, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

20. Nếu không phải chỗ, không phải thời mà hành dục, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

21. Nếu vì sinh sống mà buôn bán đem giá lên xuống, mua rẻ bán quá đắt, gian lận, trốn thuế, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

22. Trái phạm luật pháp nhà nước, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

23. Nếu có lúa mới, hoa trái, dưa rau các thứ đầu mùa, không hiến cúngTam bảo mà thọ dụng trước, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

24. Nếu chúng tăng không chấp thuận mà vẫn tự mình thuyết pháp, tán thán quan điểm riêng của mình, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

25. Trên đường đi mà dành đi trước tỳ kheo, sa di, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

26. Khi dọn thức ăn ở giữa tăng chúng nếu vì thiên vị thầy mình mà lựa chọn các thứ ngon lành dâng cho nhiều hơn các vị khác, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

27. Nếu nuôi tằm, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

28 Trên đường đi gặp người bệnh tật mà không dừng lại chăm sóc, làm các phương tiện, dặn bảo những người tại chỗ giúp đỡ lại thản nhiên bỏ đi, đó là bồ tát tại gia phạm tội thất ý.

Các giới tử! Sau khi đã thọ giới bồ tát tại gia rồi, mà phạm một trong 28 tội thất ý trên đây, giới thể sẽ không còn được vững vàng, giới thể bị đọa lạc, giới thể trở thành bất tịnh, giới thể bị chướng ngại. Vậy các người phải cẩn thậnhành trì.

Dẫn thỉnh xướng: Khấu thủ (các giới tử cúi đầu xá)

18. Lợi ích của giới Bồ tát

Giới sư nói lợi ích của giới Bồ tát và khuyên giới tử nghiêm trì. Giới sư dạy bảo rằng:

Các giới tử! Vừa rồi tôi đã truyền cho các Phật tử sáu giới trọng và hai mươi tám tội thất ý.

Các Phật tử nên biết rằng: Giới Bồ tát là giới nặng về phần lợi tha. Hàng Bồ tát luôn luôn quên mình vì người, thay người khác chịu khổ, nhận cái vui của người khác làm cái vui của mình. Nhân đã cao thượng, rộng lớn như thế, cho nên, quả cũng thật tốt đẹp vô biên. Bởi thế, kinh còn gọi giới của Bồ tát là giới vô tận tạng, nghĩa là trong giới có hàm chứa các công đức rất lớn lao, không cùng tận, các giới khác không thể sánh kịp. Giới Bồ tát giúp người qua khỏi bến mê, vượt ra ngoài sinh tử. Từ đời này đến đời khác giới thường hỗ trợ người tu hành, theo người tu hành cho đến ngày thành Phật. Người thọ giới Bồ tát tức là đã tham dự vào địa vị Phật đà.

Vậy các Phật tử hãy nỗ lực tinh tấn hành trì, cẩn thận chớ buông lung (Câu này giới sư nói ba lần để giới tử đáp ba lần).

Giới tử đồng thanh:

Y giáo phụng hành (ba lần)

Giới sư lại tiếp rằng:

Các giới tử đã nguyện y giáo phụng hành, hãy đứng dậy lễ tạ Tam bảo.

Dẫn thỉnh xướng:

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai, chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam bảo tam bái.

 

 

C. CÚNG HƯƠNG (nếu có)

Dẫn thỉnh xướng:

Hồ quỳ, hiệp chưởng (giới tử đồng quỳ).

Vài lời khai đạo giới tử về lễ cúng hương, Giới sư dạy rằng:

Các giới tử! Các người đã phát Bồ đề tâm, thọ giới Bồ tát tại gia, chí cầu Phật thừa, nguyện hành Bồ tát đạo, ấy là làm những việc khó làm, Cho nên, từ đây cho đến tận vị lai, trên vì Phật đạo, dưới vì hết thảy chúng sinh không bao giờ được thối ý khiếp nhược, không bao giờ tiếc nuối cái gì dù cả thân mạng của mình. Như Bồ tát Địa tạng nguyện mãi mãi ở chốn u đồ để hóa độ chúng sinh ác nghiệp. Như Bồ tát Dược Vương tự đốt cháy thân mình để trên cúng dường chư Phật và chánh pháp, dưới để rọi sáng chúng sinh trong chỗ tối tăm. Các hạnh nguyện đại hùng đại lực ấy, đức hy sinh vô úy ấy, các người phải từ nay cho đến cùng tận vị lai luôn luôn noi theo mà học tập và hành trì.

Nay để phát dương chí nguyện cao vời ấy, các người cần đối trước Tam bảo tự đốt lên một phần nhỏ của thân thể để chứng minh ý chí đại hùng của người đã thọ Bồ tát giới.

Đối trước Tam bảo, các Phật tử đã phát tâm cúng hương, vậy hãy dũng mãnh lên và chí thành niệm Phật cầu gia hộ.

Dẫn thỉnh xướng:

Khởi thân. Chí thành đảnh lễ Tam bảo tam bái.

Chư giới tử kiết già an tọa.

Cung thỉnh chư Tôn đức hộ hương tấn đàn

Lễ cúng hương bắt đầu.

Giới sư cùng Đại chúng hướng về Tam bảo nhất tâm niệm Phật. Giới sư cử tụng:A Di Đà Phật thân kim sắc...

D. HỒI HƯỚNG

Sau khi hoàn tất lễ cúng hương, Giới sư cùng đại chúng hướng về Tam bảo, tụng hồi hướng:

Ma ha Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh....

Thiên A tu la Dược xoa....

Thọ giới công đức thù thắng hạnh....

Tự quy y Phật....

E. GIỚI TỬ LỄ TẠ

Sau ba tự quy, Giới sư vẫn an tọa, giới tử lễ tạ.

Dẫn thỉnh xướng:

Nhất tâm đảnh lễ tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai, thập phương thường trụ Tam bảo, tam bái.

Nhất tâm đảnh lễ Ta bà thế giới Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật, tam bái.

Nhất tâm đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, tam bái.

Nhất tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ tát, tam bái.

Nhất tâm đảnh lễ Thập phương Như Lai, tam bái.

Nhất tâm đảnh lễ Thập phương chư đại Bồ tát, tam bái.

Nhất tâm đảnh lễ Đắc giới Hòa thượng, tam bái.

Nhất tâm đảnh lễ Liệt vị A xà lê, tam bái.

Nhất tâm đảnh lễ Hiện tiền chư vị Đại đức tăng già, tam bái.

Giới tử thoái ban (Ra xếp hàng đợi tiễn chư Tôn đức).

F. GIẢI TIỂU GIỚI (nếu có kiết giới)

I.Họp tăng. Như phần kiết tiểu giới

II. Giải tiểu giới. Vị yết ma bạch rằng:

Đại đức Tăng nghe, Tăng nay họp để giải giới, nếu Tăng phải thời mà đến Tăng thuận cho, xin giải giới, bạch như thế. Tác bạch có thành không ?

Thành (chúng đồng đáp)

Đại đức Tăng nghe, Tăng nay họp để giải giới, các trưởng lão nào bằng lòng Tăng họp để giải giới thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Yết ma có thành không?

Thành (chúng đồng đáp)

Tăng đã bằng lòng giải giới xong. Riêng Tăng bằng lòng nên đã im lặng, việc ấy tôi ghi nhận như vậy.

Nguyện dĩ thử công đức...

Hòa nam thánh chúng.

G. THỈNH SƯ VỀ TỔ ĐƯỜNG, TẠ TỔ, VỀ TỊNH PHÒNG AN NGHỈ

Dẫn thỉnh xướng: Cung thỉnh chư Tôn đức thối ban, hồi nghệ Tổ đường.

Chuông trống bát nhã.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12470)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10342)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11621)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28775)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12024)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12983)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11428)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17426)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52983)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35459)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10664)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19210)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12387)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25996)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13296)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14346)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16063)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13712)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16817)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17539)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13106)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12508)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11590)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11579)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14481)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20411)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18939)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19521)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18603)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12166)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13830)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14981)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15023)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13965)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15503)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11376)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17138)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14941)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20165)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14594)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13809)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11682)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15028)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12973)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22837)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14536)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11630)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16849)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18317)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11484)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15824)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12858)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18882)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18389)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant