Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1.2 Trường Hợp Bụt Nói Kinh

20 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7392)
1.2 Trường Hợp Bụt Nói Kinh


Hạnh Phúc Mộng Và Thực

Nhất Hạnh

CHƯƠNG 1

TÊN VÀ NGUỒN GỐC KINH TAM DI ĐỀ

1.2 Trường Hợp Bụt Nói Kinh

Đây là những điều tôi được nghe vào một thời mà Bụt đang cư trú ở Tu viện Trúc Lâm Ca Lan Đà, tại kinh thành Vương Xá. Một sớm mai nọ có vị khất sĩ ra sông cởi y áo để trên bờ, rồi xuống nước tắm gội. Tắm xong vị ấy ấy lên bờ đợi cho khô mình mẩy rồi mặc áo vào. Bấy giờ có một vị thiên nữ xuất hiện, hào quang từ thân hình phát ra sáng chói, soi rõ cả bờ sông. Thiên nữ nói với vị khất sĩ:

“Thầy là một người mới xuất gia, tóc còn xanh, tuổi còn trẻ, giờ này đáng lý phải xông ướp hương thơm, trang điểm châu báu, đeo tràng hoa thơm mà hưởng thọ năm thứ vui thú ở đời. Trong khi đó thì thầy lại bỏ những người thương, quay lưng lại với cuộc đời thế tục, chịu đựng sự biệt ly, cạo bỏ râu tóc, khoác áo Cà sa, tin tưởng vào con đường xuất gia học đạo. Tại sao lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời như thế?”.

Đó là đoạn đầu của kinh theo bản văn Hán tạng. Trong bản văn tiếng Pali cũng nói giống như vậy và có ghi rõ tên vị khất sĩ là Tam Di Đề. Trong bản văn Hán tạng tuy không nêu rõ tên vị khất sĩ trẻ, nhưng ta biết chắc rằng vị khất sĩ đương sự mang tên Samiddhi.

Chúng ta cũng có một bản dịch khác trong Hán tạng là Biệt Dịch Tạp A Hàm Kinh. Trong bản kinh này có ghi là khi thầy Samiddhi cởi áo đi xuống nước tắm thì trời còn mờ tối, chưa sáng hẳn. Khi bước lên thì thầy để lộ cái thân hình của một người con trai trẻ tuổi, và thầy đứng như vậy đợi cho khô ráo chứ không mặc vào một cái áo để che thân như đã được mô tả trong Tạp A Hàm Kinh số 1078 hay là trong kinh văn Pali. Biệt Dịch Tạp A Hàm nói “lộ hình xuất thủy”, tức là đi ra khỏi nước để lộ thân hình và đứng đợi cho khô thôi, không nói có mặc áo vào. Tôi nghĩ rằng bản kinh nói “lộ hình xuất thủy” có tính cách gần với kinh nguyên thủy hơn. Sau này có lẽ người ta thấy cái hình ảnh đó không được thuần phong mỹ tục cho lắm, nên bản Tạp A Hàm cũng như bản Pali đều cho thầy mặc vô một cái áo để đứng đợi cho khô mình mẩy.

Ở gần núi Linh Thứu có nhiều nước suối nóng, các thầy ưa tới đó tắm. Có nhiều thầy trẻ, tắm hơi nhiều nên bị Bụt quở. Vì vậy sau đó đã phải qui định lại là nên tắm bao nhiêu thì đủ, vì tắm ở suối nước nóng là một sụ thích thú của rất nhiều thầy. Trong khu vực những suối nước nóng có một tu viện. Nói là tu viện nhưng kỳ thực không có những tòa nhà lớn mà chỉ có những thảo am, những tịnh xá nho nhỏ cất lên rải rác đó đây cho các thầy lớn tuổi thôi, còn các thầy nhỏ thì sống ở dưới các gốc cây. Những dòng suối nước nóng đó chảy vào một con sông tên là Tapoda, và tu viện ở đó gọi là tu viện Tapodarama. Nước sông không còn nóng như ở suối, và thầy Samiddhi đã tắm ở dòng sông này.

Chúng ta nên biết rằng ngày xưa các vị Thiên giả hiện xuống sống chung với người thường rất thường. Hiện nay ta chỉ thấy người thường thôi chứ không thấy Chư Thiên xuống nghe Pháp. Thật ra chúng ta phải nghĩ rằng giữa Thiên với Nhân khoảng cách cũng không xa bao nhiêu. Có những người sống nhẹ nhàng như tiên và như vậy thì dưới trần thế cũng có những vị Thiên giả chứ không phải là không.

Trong đoạn này, ta nhận thấy vị Thiên giả xuất hiện khi thầy Samiddhi mới tắm xong và chưa mặc áo, Có lẽ nhìn thấy thầy là một người con trai mới lớn, thân hình tráng kiện là lại xuất gia, cho nên cô đã hỏi: “Thầy tuổi còn trẻ, tóc còn xanh, giờ này đáng lý phải xông ướp hương thơm, trang điểm châu báu, đeo tràng hoa mà hưởng thọ năm thứ vui ở đời. Tại sao thầy lại bỏ những người thương, quay lưng lại với cuộc đời thế tục, chịu đựng sự biệt ly, cạo bỏ râu tóc, khoác áo Cà sa, tin tưởng vào con đường xuất gia học đạo. Tại sao thầy lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lợi phi thời như thế?” Chuyện này xảy ra trong quá khứ nhưng cũng đang xảy ta trong hiện tại. Người ta thường hay nói: mình còn trẻ mà đi tu làm gì? Mình phải xông pha trong cuộc đời hưởng thọ năm thứ dục lạc trước, rồi sau đó mình tu cũng không muộn. Truyền thống Đạo Bà la môn chủ trương như vậy. Nhưng truyền thống của Đạo Bụt là một truyền thống mới, khác với đạo Bà la môn, vì vậy mà thầy Samiddhi đã trả lời câu hỏi của vị Thiên nữ:

“Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thật trong hiện tại đó chứ!”

Phi thời nghĩ là không đúng lúc. Theo vị Thiên nữ thì năm thứ dục lạc (tài, sắc, danh, thực, thụy) là lạc thú hiện tại, còn lạc thú mà người xuất gia đi tìm, tức là giải thoátNiết Bàn, là lạc thú phi thời. Ai lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời như vậy? Đó là lời nói của vị Thiên nữ. Thầy Samiddhi đã trả lời rất hay: “Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại để đi tìm cái lạc thú phi thời? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thật trong hiện tại đó chứ!” Câu trả lời này rất đúng chánh pháp. Nếu không học nhiều kinh khác nói về Bụt, về Pháp và về Tăng thì chúng ta sẽ không hiểu được câu này.

Vị Thiên nữ hỏi:

- “Thế nào là bỏ cái lạc thú phi thời để tìm cái lạc thú chân thật trong hiện tại?”

Vị khất sĩ đáp:

- “Đức Thế Tôn có dạy: trong cái vui phi thời của ái dục, vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều. Cái lợi rất bé mà cái tai họa rất lớn. Tôi giờ này đang an trú trong hiện pháp, lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy. Hiện pháp này vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thông đạt, tự mình có thể giác tri. Này Thiên nữ, đó gọi là bỏ cái lạc thú phi thời để đạt tới cái lạc thú chân thực trong hiện tại".

Đoạn kinh văn này rất quan trọng. Ta phải nghiên cứu mới hiểu sâu được.

Vị Thiên nữ lại hỏi vị khất sĩ:

- Tại sao Đức Thế Tôn lại nói trong cái vui phi thời của ái dục vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều, cái lợi rất bé mà tai họa rất lớn? Tại sao Đức Thế Tôn lại nói an trú trong hiện pháp là lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thông đạt, tự mình có thể giác tri?”

Vị khất sĩ trả lời:

- “Tôi mới xuất gia được có mấy năm, không đủ sức giảng bày rộng rãi những giáo phápluật nghiĐức Như Lai tuyên thuyết. Hiện Đức Thế Tôn đang cư ngụ gần đây, nơi rừng tre Ca Lan Đà, Thiên nữ có thể tới với Người để trình bày những nghi vấn của Thiên nữ, Đức Như Lai sẽ dạy cho Thiên nữ chánh pháp để tùy nghi thọ trì”.

Câu nói đó của thầy Samiddhi chứng tỏ thầy đã cẩn thận trong khi trả lời. Thầy không dám giảng rộng ra và câu mà thầy vừa nói trên là một câu thầy đã thuộc lòng, nó nằm trong công thức về phép niệm Bụt, niệm Phápniệm Tăng. Trước đây thầy Samiddhi đã một lần giảng giải rộng, nhưng vì giảng giải chưa được đúng nên thầy đã bị Đức Thế Tôn quở, thành ra bây giờ thầy cẩn thận hơn.

Hồi đó Bụt ở tại tu viện Trúc Lâm. Tu viện này ở miền Nam thủ đô Vương Xá, cách thủ đô chừng vài cây số. Trong tu viện Trúc Lâm có một cái hồ lớn, gọi là Hồ Ca Lan Đà (Kalandala). Ngày xưa tu viện có rất nhiều loại tre quí do Vua tần Bà Xa La đem từ các nơi về. Trong vườn tre có rất nhiều con sóc hiền lành. Khi đến thăm Bụt ở rừng Kè, Vua Tần Bà Xa La đã thỉnh Bụt và giáo đoàn về cung thọ trai. Mấy tuần lễ sau, vào ngày trăng tròn, buổi sáng Bụt khoác áo Cà sa, mang bình bát cùng với giáo đoàn 1250 vị khất sĩ đi vào thành Vương Xá để đáp lại lời mời của Quốc Vương Tần Bà Xa La. Trong dịp thiết trai tăng cúng dường này, Vua Tần Bà Xa La đã hiến cúng cho Bụt và giáo đoàn khu vưòn tre đó. Vườn tre này trở thành tu viện đầu tiên của giáo đoàn Đạo Bụt. Về sau giáo đoàn lại có thêm tu viện Nalanda ở tám cây số phía bắc thủ đô.

Ngày xưa Tu viện Nalanda là một tu viện rất phồn thịnh, quê hương của thầy Xá Lợi Phất. Tu viện này có hàng ngàn sinh viên xuất gia tới học. Thầy Huyền Trang cũng có qua học ở đây. Bây giờ tu viện đã tan nát rồi. Sau này, một học giả người Pháp nói rằng sở dĩẤn Độ đạo Bụt bị tiêu mòn không còn dấu vết nữa là tại Bụt đã nhận đất cúng dường! Từ một người khất sĩ không cửa, không nhà, Bụt đã trở thành một địa chủ, vì vậy mà sau này đạo Bụt đã gặp khó khăn. Theo nhà học giả này thì nếu ngày xưa Bụt đừng nhận đất, đừng trở thành địa chủ thì các giáo phái khác có muốn đánh cũng không đánh được, vì có nơi nào mà đánh đâu? Ví như giáo đoàn lõa thể của giáo chủ Mahavira đạo Jain, họ vẫn trường tồn từ thời của Bụt cho đến bây giờ.

Đọc những lời nhận xét này của nhà học giả Pháp, tôi chỉ mỉm cười thôi. Theo tôi thì nguyên so suy đồi của đạo Bụt là vì vào thế kỷ thứ VII và thứ VIII, giới Phật tử ưa tranh luận quá nhiều, lý thuyết quá nhiều, mà không chú tâm mấy đến sự thực tập hành trì. Quan trọng hơn nữa là trong đời sống hàng ngày lúc đó, đạo Bụt đã không đặt nền tảng và cơ sở thực tập của mình trong quảng đại quần chúng mà chỉ lo tiếp xúc nhiều với giới quyền quí. Đó mới là những nguyên do căn bản đã đưa đến sự suy đồi của đạo Bụt tại Ấn Độ.

Trở lại Kinh Tam Di Đề, khi nghe thầy Samiddhi mời đi gặp Bụt thì vị Thiên nữ nói:

“Thưa khất sĩ, Đức Như Lai đang được các vị Thiên giả có nhiều uy lực túc trực bao quanh, tôi không dễ gì có cơ hội để tới gần Người mà hỏi Đạo. Nếu thầy có thể đến trực tiếp gặp Đức Thế Tôn để thỉnh vấn trước giùm tôi thì tôi sẽ xin đi theo thầy”.

Vị khất sĩ nói:

- “Tôi sẽ đi giúp Thiên nữ”.

Vị Thiên nữ nói:

- “ Thưa Tôn giả, vâng, tôi sẽ đi theo Tôn giả”.

Chi tiết này cho ta thấy rằng ngày xưa được gặp Bụt cũng hơi khó. Lý do là vì chung quang Bụt luôn luôn có những vị có y lực lớn, tuy vậy các vị khất sĩ và nữ khất sĩ thì tới với Bụt rất dễ. Thầy Samiddhi tuy còn nhỏ nhưng cũng được phép tới gần Bụt, dễ dàng hơn là những vị Thiên giả. Chúng ta có thể nghĩ rằng, một vị Thiên giả có hào quang, có quyền phép mà tại sao không tới gần Bụt được, trong khi đó một vị Tỳ kheo trẻ như thầy Samiddhi mà muốn tới với Bụt lúc nào cũng được? Chi tiết đó rất hay. Điều này cũng đúng trong hoàn cảnh hiện giờ của chúng ta. Các Sư Cô, Sư Chú tới với Thầy rất dễ, trong khi đó thì những vị có địa vịdanh lợi tới với Thầy rất khó. Điều đó chứng tỏ rằng khi ta đã xuất gia rồi, đã hoàn toàn đem cuộc đời mình đi vào trong Chánh Pháp, thì ta đã trở thành một loại đất tốt, một loại ruộng phước (phước điền) tốt, và vì vậy ta được Bụt để ý và chăm sóc nhiều hơn. Một người đã bỏ hết gia sản, công danh, sự nghiệp để đi xuất gia, thì tự nhiên được Bụt coi như là đối tượng của sự giáo hóa. Vì vậy cho nên dầu họ không phải là các bậc Thiên giả có hào quang sáng, có uy tín nhiều, có địa vị lớn trong xã hội, nhưng họ có thể tới với Bụt bất cứ lúc nào. Cũng vì lý do đó mà vị Thiên giả mới phải nhờ thầy Samiddhi dẫn đi diện kiến với Bụt.

Lúc ấy vị khất sĩ kia đi đến nơi Bụt ở, cúi đầu làm lễ dưới chân Người, lui ra đứng một bên và đem câu chuyện đã nói với vị Thiên nữ thuật lên cho Bụt nghe. Rồi thầy tiếp:

- “Bạch Đức Thế Tôn, nếu vị Thiên nữ kia có tâm thành khẩn thì giờ này vị ấy đã có mặt ở đây rồi. Nếu không thì có lẽ vị ấy đã không tới”.

- “Thưa Tôn giả, tôi đang có mặt đây, tôi đang có mặt đây”. Và vị Thiên nữ tới gần.

Đức Thế Tôn liền nói cho Thiên nữ nghe bài kệ sau đây:

 Chúng sanh theo dục tưởng,

 Trú trong dục tưởng ấy,

 Không biết dục là gì,

 Nên đi vào nẻo chết.

Rồi Bụt hỏi vị Thiên nữ:

- “Con hiểu bài kệ không? Nếu chưa hiểu thì cứ nói”.

- “Con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Lúc bấy giờ Bụt lại đọc cho vị Thiên nữ nghe một bài kệ khác:

 Biết bản chất của dục,

 Sẽ không sinh dục tâm,

 Dục không, dục tưởng không,

 Không ai xúi được mình.

Rồi Bụt hỏi vị Thiên nữ:

- “Còn bài kệ này con có hiểu không? Nếu không hiểu thì con cứ nói”.

Vị Thiên nữ bạch Bụt:

- “Con cũng chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con cũng chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Bụt lại đọc cho vị Thiên nữ một bài kệ khác:

 Mặc cảm hơn, thua, bằng,

 Tạo thành mọi tranh luận,

 Ba mặc cảm dứt rồi,

 Tâm không còn khuynh động.

Đọc xong Bụt lại hỏi vị Thiên nữ:

- “Bây giờ con đã hiểu bài kệ ấy chưa? Nếu chưa hiểu thì con cứ nói”.

Vị Thiên nữ bạch Bụt:

- “Con vẫn chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con vẫn chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Bụt lại đọc cho vị Thiên nữ một bài kệ khác nữa:

 Cắt ái và danh sắc,

 Trừ mạn hết buộc ràng,

 Chấm dứt mọi sân hận

 Nội kết và hy cầu,

 Là giải thoát mọi cõi,

 Đời này và đời sau.

Rồi Bụt hỏi vị Thiên nữ:

- “Lần này con có hiểu được ý nghĩa của bài kệ không? Nếu không thì con vẫn có thể hỏi thêm”.

Thiên nữ bạch Bụt:

- “Con đã hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu, bạch Đức Thiện Thệ”.

Nghe Bụt nói kinh xong vị Thiên nữ vui vẻ mừng vâng theo, biến đi và không ai còn trông thấy tăm dạng cô đâu nữa.

Đó là trường hợp mà Bụt đã nói Kinh Samiddhi. Kinh này trích từ Bộ Tạp A Hàm. Khi học kinh này chúng ta sẽ xét luôn văn bản bằng tiếng Pali và văn bản bằng chữ Hán trong bộ Biệt Dịch Tạp A Hàm. Có một vài kinh khác cũng có liên hệ tới Kinh Samiddhi, chúng ta sẽ có dịp tham cứu.

PHI THỜI: MỘT CHỦ ĐỀ LỚN CỦA KINH TAM DI ĐỀ.

Đối thoại với Thiên nữ, câu trả lời đầu tiên của thầy Samiddhi là: “Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời (akalika)? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để đi tìm cái lạc thú chân thật trong hiện tại đấy chứ”. Tiếng Phạn kala có nghĩa là thời gian, còn kalika là nằm trong thời gian và khi thêm chữ “a” vào thì thành akalika, nghĩa là không nằm trong thời gian, nghĩa là phi thời. Cách dùng chữ trong kinh điển rất là mầu nhiệm, ta phải cẩn thận lắm mới hiểu được.

Kinh có ghi lại lời Bụt đã nói với vua Ba Tư Nặc về vấn đề vượt thoát thời gian. Khi nhà vua đến thăm Bụt lần đầu tiên thì Bụt mới có 38 tuổi. Vua đã hỏi Bụt: “Sa môn Gotama, người ta thường ca ngợi Ngài là Bụt, là người đã đạt tới quả vị giác ngộ cao nhất, trẫm băn khoăn tự hỏi: tuổi Ngài còn nhỏ, năm tu của Ngài cũng còn ít thế mà tại sao Ngài lại có thể đạt tới thành quả đó được? Trẫm đã nghe nói đến nhiều vị đạo cao đức trọng như Purana Kassapa, như Makkhali Gosala v.v... họ là những vị tu lâu năm tuổi tác đều lớn tại sao họ không tự nhận là bậc Chánh Biến Tri Giác?” Bụt ôn tồn trả lời: “Đại Vương, vấn đề chứng ngộ không phải là vấn đề tuổi tác, vấn đề chứng ngộ không phải là vấn đề thời gian". Rồi Ngài đem ra bốn ví dụ để khai thị cho vua. Ngài nói: “Đại Vương, có những cái bé nhỏ mà ta không nên khinh thường: một vị Vương tử bé, một con rắn con, một đốm lửa nhỏ, và một nhà tu trẻ. Vị Vương tử tuy còn bé, mới có 3, 4 tháng thôi nhưng cũng có Vương tính của một Đức Vua như Bệ Hạ bây giờ. Một con rắn độc tuy nhỏ bằng chiếc đũa, nhưng nó có thể làm ta mạng trong chốt lát. Một đốm lửa hồng có thể làm thiêu rụi một khu rừng hay một thành phố lớn. Một nhà tu trẻ có thể đạt tới quả vị giác ngộ hoàn toàn, vì tuy trẻ nhưng vị ấy có giác ngộ tính bên trong. Đại Vương! Người khôn ngoan không bao giờ khinh thường một Vương tử bé, một con rắn nhỏ, một đốm lửa hồng hay một nhà tu trẻ”.

Câu trả lời của Bụt bao gồm trong mấy chữ “giác ngộ không phải là vấn đề thời gian, không thuộc về thời gian". Chữ kalika ở đây có nghĩa là thuộc về thời gian, bị thời gian chi phối. Còn akalika là vượt ra khỏi thời gian, không bị thời gian chi phối. Akalika là một danh từ dùng để diễn tả Pháp của Bụt. Trong văn học Phật Giáo có một từ rất hay, đó là kiếp ngoại. Kiếp tức là Kalpa, có nghĩa là thời gian. Ngoại tức là ngoài. Ngày xưa thầy Trọng Ân có làm một bài thơ nói về Ngày Đản Sanh, trong đó thầy viết:” Hoa nở trong kiếp ngoại”. Đây là một thứ hoa không tàn phai vì thời gian. Ta có thể dùng chữ thời ngoại, nhưng không hay bằng chữ kiếp ngoại. Kinh Tam Di Đề thì dùng chữ phi thời. Nhưng kinh này được dịch vào khoảng thế kỷ thứ IV, do đó ta có thể thay bằng những chữ mà ta thấy nó hợp thời gian, ví dụ như kiếp ngoại hay thời ngoại.

Hôm trước quí vị đã cùng thực tập tụng kinh Pali, chúng ta đã tụng: Svàkkhàto bhagavatà dhammo, sanditthiko, akaliko, chipassiko ... Akaliko là phi thời, tức là vượt thoát thời gian. Ban đầu vị thiên giả nói rằng sự tu học xuất gia hành đạotính cách phi thời, ở đây cô có ý nói là không đúng lúc. Tại sao thầy còn trẻ mà lại đi xuất gia? Cô đã dùng chữ phi thời theo nghĩa đó. Nhưng trong giáo pháp, chữ phi thời lại có nghĩa là vượt thoát thời gian, không bị thời gian chi phối. Cũng trong giáo pháp, ta học rằng dục vọng nằm trong thời gian và bi thời gian chi phối. Cái hay của câu kinh là ở chỗ đó. Nó gần giống như một sự chơi chữ. Hai bên nói hai ngôn ngữ khác nhau. Một bên thế tục thì nói: “Tại sao lại bỏ cái vui hiện tại để đi tìm cái vui phi thời?”. Một bên đã xuất gia thì nói: “Cái mà cô gọi là thú vui hiện tại là cái đang bị thời gian chi phối, vì nó nằm ở trong thời gian. Cái mà tôi đang thực hiện, đang sống đây là cái vượt thời gian, nó không bị thời gian chi phối.

Muốn hiểu rõ hơn đoạn này, quí vị có thể đọc thêm Kinh Người Áo Trắng, trong đó tôi có giải thích tường tận những danh từ này (Akalika, Ehipassika, Samditthika, Opanayika). Những danh từ đó là một tả tính chất mầu nhiệm của giáo Pháp đạo Bụt.

“Tôi đâu có bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời, chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thực trong hiện tại đấy chứ!” Câu nói này cố nhiên là vị thiên giả không hiểu, tại vì thầy Samiddhi chưa giảng cho cô hay Bụt có dạy rằng tu học thì mình có hạnh phúc ngay trong hiện tạigiáo pháp mà mình đang tu tập có thể cho mình niềm vui ngay trong hiện tại. Mình có hạnh phúc ngay trong khi mình tu học.

Có một mệnh đề được ghi lại trong rất nhiều kinh nhưng không thường được nhắc tới, đó là mệnh đề Hiện Pháp Lạc Trú. Hiện Pháp tức là cái gì đang xảy ra trong hiện tại. An trú một cách có hạnh phúc ở trong giây phút hiện tại thì gọi là hiện pháp lạc trú (Ditthadhamma Sukhavihari). Ditthadhamma là hiện pháp; Sukha là lạc; Vihari tức là trú; Sukhavihari là lạc trú. Đây là tinh túy của giáo pháp đạo Bụt: “Trong khi tu học, ta phải để tâm tiếp xúc với hiện tại mầu nhiệm và phải có an lạc ngay trong khi tu học”. Ví dụ khi đi thiền hành, ta không đi thiền hành cho tương lai mà đi cho hiện tại, mỗi bước chân phải đem lại an lạc, mỗi bước chân phải có tác dụng nuôi dưỡng ta. Khi ngồi thiền cũng vậy, ta không ngồi cho tương lai mà phải ngồi làm sao để có an lạc và có hạnh phúc ngay bây giờ. Khi rửa nồi, nấu cơm, rửa bát, ta đều phải thực tập cái pháp gọi là Hiện Pháp Lạc trú. Trong câu trả lời kể trên, tuy rằng thầy Samiddhi không nói thẳng ra, nhưng thầy đã có ý nói với vị thiên giả là tôi đang có hạnh phúc đây, tại vì tôi đang thực tập theo cái nguyên tắc gọi là hiện pháp lạc trú. Tôi đang có hạnh phúc thật sự ngay trong giờ phút hiện tại, chứ tôi không đang chạy theo một bóng dáng của hạnh phúc trong tương lai. Bóng dáng của hạnh phúc là danh, là lợi, là tài, là sắc. chúng chỉ mới là bóng dáng thôi, và chính đó mới là phi thời, còn trong sự thực tập của một khất sĩ thì cái hạnh phúc đó là cái hạnh phúc đang có, cho nên cô không thể nói rằng tôi đang đi theo một cái gì phi thời được.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10249)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12231)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28680)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12897)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52689)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21208)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12304)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25830)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13207)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14269)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13626)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16709)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13014)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12429)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11470)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18812)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19418)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12185)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14954)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13860)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11296)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17017)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14828)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20041)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13746)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11629)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14933)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22749)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14471)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13077)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18237)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11857)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15713)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18783)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18259)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant