Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tỳ Kheo Na Tiên

22 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 23167)
Kinh Tỳ Kheo Na Tiên

KINH TỲ KHEO NA TIÊN
Càn Long Đại Tạng Kinh Quyển 108, trang 706-753
Thiện Nhựt phỏng dịch và tìm hiểu

MỤC LỤC TỔNG QUÁT

Vài cảm nghĩ về Kinh Tì-kheo Na-Tiên
A. Bản Phỏng dịch
B. Tìm hiểu Nghĩa Chữ
C. Tìm hiểu Nghĩa Ý
D. Bản Phiên Âm

(Mục Lục Chi Tiết Xem Bên Dưới)

Nội-dung tập sách nầy gồm có:

A.- Bản Phỏng-dịch từ chánh-văn trong Đại-Tạng, còn thiếu tên tác-giả chữ Phạn và dịch-giả chữ Hán;
B.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ: từ-ngữ Phật-học được tra Từ-điển và giải-thích gọn, theo thứ-tự A, B, C;
C.- Phần Tìm hiểu Nghĩa Ý: các câu vấn-đáp xếp lại thành 10 vấn-đề: 9 về giáo-lý, 1 về linh-tinh.
D.- Bản Phiên-âm Hán-Việt

Thân-kính tặng Quí-Vị Đạo-hữu Tổ-đình Từ-Quang và Thiền-viện Linh-Sơn,
để nhớ các buổi trưa nói chuyện Đạo vào dịp cuối tuần,

Thiện-Nhựt
Huỳnh-Hữu-Hồng

MỤC LỤC CHI TIẾT

A. Bản Phỏng-dịch:
Quyển Thượng

001 Đức Phật vào rừng tòng
002 Tượng-vương vào rừng tòng gặp Đức Phật
003 Tượng-vương đến chùa nghe Kinh
004 Tiền-kiếp của Tì-kheo Na-Tiên và Vua Di-Lan
005 Na-Tiên xuất-gia cầu Đạo với Lâu-Hán
006 Na-Tiên đến chùa Hoà-Thiền-Tự
007 Na-Tiên bị Sư Ca-Duy-Viết trục-xuất, liền đi vào rừng ẩn-tu và đắc quả-vị A-la-hán
008 Na-Tiên đi hành-đạo trong dân-gian
009 Vua Di-Lan cai-trị nước Xá-Kiệt
010 Vua Di-Lan hỏi bí tu-sĩ Dã-Hoà-La
011 Vua Di-Lan thỉnh Na-Tiên
012 Vua Di-Lan vừa gặp Na-Tiên
013 Ai là Na-Tiên? Xe là gì? Người là gì?
014 Thái-độ đứng-đắn khi thảo-luận
015 Câu hỏi rất khó: chẳng nghe hỏi, mà đã có đáp rồi
016 Thỉnh Na-Tiên, mời thêm bao nhiêu vị sa-môn
017 Dọc đường, Na-Tiên khai-ngộ cho Triêm-Di-Lợi
018 Bàn về điều tinh-yếu: tại sao làm sa-môn?
019 Tại sao phải sanh trở lại? Trí-huệ giúp được gì?
020 Thiện là gì? Thành-tín là gì?
021 Năm điều ác là những gì?
022 Tinh-tấn là làm sao?
023 Hiếu-thuận ở đây là tuân theo 37 Phẩm Trợ-Đạo
024 Thế nào là bốn sự dừng-ý (= Tứ-niệm-xứ)
025 Thế nào là bốn sự đoạn-ý?
026 Thế nào là bốn niệm thần-túc?
027 Năm căn là những gì?
028 Năm lực gồm có những gì?
029 Thế nào là bảy giác-ý?
030 Tám đạo-hạnh (Bát-Chánh-Đạo) là những gì?
031 Lấy Bát-Chánh-Đạo làm căn-bản tu-hành
032 Tinh-tấn là gì?
033 Năm điều thiện là phải làm sao?
034 Thế nào gọi là nhứt-tâm?
035 Trí-huệ là như thế nào?
036 Các loại Kinh-điển đều dạy điều thiện để tận-diệt các điều ác.
037 Người tái-sanh lại thì dùng thân cũ hay thân mới?
038 Người hết tái-sanh lại có biết trước mình chẳng sanh lại nữa chăng?
039 Khả-năng của Trí-huệ lộ bày ra sao?
040 Năm điều thiện là những gì?
041 Vì sao bực đã đắc đạo còn sống lại phải chịu khổ?

Quyển Trung
042 Ba loại cảm-thọ: vui, khổ, chẳng vui chẳng khổ
043 Khi chết rồi, ai sanh trở lại?
044 Vua hỏi, Na-Tiên còn sanh trở lại?
045 Danh Thân nghĩa là gì?
046 Thời-gian
047 Thời-gian cùng với Danh Thân triển-chuyển:
048 Người ''có gốc'' nghĩa là gì?
049 Cái ''gốc sanh-tử'' là gì?
050 Thế-gian chẳng hề có việc tự-nhiên mà sanh ra
051 Cái gì là ''Người''?
052 Mắt và tâm cùng thấy
053 Giác-quan và tâm phối-hiệp
054 Vui-sướng nghĩa là gì?
055 Giác-tri là gì?
056 Sở-niệm là gì?
057 Thế nào là nội-động?
058 Các tâm-niệm phối-hợp nhau rồi vhẳng tách ra riêng từ món đìợc
059 Vị của muối
060 Năm giác-quan
061 Tại sao có sự bất-bình-đẳng giữa loài người?
062 Phải làm điều lành từ trước
063 ''Lộc riêng'' phải chăng là Nghiệp-lực?
064 Bốn đại (bốn nguyên-tố) nương vào nhau
065 Đạo Niết-bàn là gì?
066 Đắc đạo Niết-bàn
067 Dầu chưa đắc Niết-bàn, cũng biết Niết-bàn là vui-sướng
068 Chẳng từng thấy Phật, đâu có nghĩa là chẳng hề có Đức Phật

Quyển Hạ
069 Chẳng ai thắng nổi Đức Phật
070 Khi tái-sanh, con người thọ thân mới
071 Thân mới mang theo nghiệp của thân cũ
072 Chỗ đã làm thiện-ác trước, nay ở vào đâu?
073 Người phải tái-sanh, tự biết điều đó
074 Có Niết-bàn chăng?
075 Sa-môn giữ-gìn thân, chớ chẳng mến-thương thân
076 Thân-tướng trang-nghiêm của Đức Phật
077 Đức Phật đâu phải là đệ-tử của Đại-Phạm-Thiên
078 Đức Phật tự biết lấy Kinh-kệ và Giới-luật
079 Khóc cha mẹ chết và khóc khi nghe Kinh
080 Bực đắc đạo và kẻ chưa đắc đạo, khác nhau
081 Trí nhớ của con người
082 Mười sáu cách để nhớ lại việc cũ
083 Đức Phật biết tất cả, sao chẳng dạy hết một lần?
084 Lỡ làm ác, biết niệm Phật, chết khỏi sa địa-ngục
085 Sa-môn học đạo vì muốn thoát mọi khổ về sau
086 Bực La-hán bay lên Trời nhanh như duỗi cánh tay
087 Chết cùng lúc thì đến nơi tái-sanh cùng lúc
088 Dùng bảy việc để học biết Đạo
089 Lỡ làm điều ác, biết hối-cải, tội giảm dần đi
090 Người trí, kẻ ngu cùng làm ác, ai nặng tội hơn?
091 Sức thần-túc
092 Có thể ngưng hơi thở ra vào được chăng?
093 Biển và nước biển
094 Tư-duy đến các sự-việc cao-thâm
095 Tinh-thần, Trí-huệ và Tự-nhiên
096 Phân-tách kỹ thân-tâm ra, đó là vô-ngã chăng?
097 Luận-bàn Giáo-Pháp, Vương và Na-Tiên đều vui.

B. Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ

C. Phần Tìm hiểu Nghĩa Ý
098 Xuất-xứ của quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
099 Bố-cục của quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
100 Tóm-lược về tiền-kiếp của Na-Tiên và Di-Lan
101 Na-Tiên đắc quả A-la-hán
102 Sa-môn Dã-Hoà-La bị Vua Di-Lan hỏi bí
103 Vua Di-Lan thử-thách Tì-kheo Na-Tiên
104 Thái-độ trong khi bàn-luận Giáo-Pháp
105 Dọc đường Triêm-Di-Lợi được Na-Tiên khai-ngộ
106 Sắp-xếp lại các loại câu hỏi về Giáo-Pháp

I.- Vấn-đề: Đi tu làm Sa-môn
107 Tại sao đi tu làm sa-môn?
108 Có mấy hạng Sa-môn?

II.- Vấn-đề: Tái-sanh Luân-hồi
109 Vấn-đề Tái-sanh được nêu lên nhiều lần trong quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
110 Thắc-mắc lớn: Chết rồi, đi về đâu?
111 Có hiện-tượng Tái-sanh hay không?
112 Cái gì mất, cái gì còn, khi chết đi?
113 Tại sao phải tái-sanh lại? Ai phải tái-sanh lại, còn ai chẳng phải tái-sanh trở lại?
114 Người hết tái-sanh lại có tự-biết điều đó chăng?
115 Vua hỏi Na-Tiên có biết mình còn phải tái-sanh nữa không?
116 Khi tái-sanh, dùng thân cũ hay có thân mới?
117 Chỗ đã làm thiện, ác nay đi về đâu và thân mới có mang theo nghiệp cũ không?
118 Thế nào là Danh-Sắc triển-chuyển qua thời-gian tòng theo các nguyên-nhân dây chuyền?
119 Đối-chiếu lập-luận của Na-Tiên với Lý Mười-hai Nhân-Duyên trong Giáo-lý
120 Cái ''gốc sanh-tử'' của chúng-sanh là gì?
121 Hai người chết cùng lúc, có tái-sanh cùng một lúc ở hai nơi xa gần khác nhau không?
122 Chẳng hề có việc tự-nhiên mà sanh ra
123 Vấn-đề Tái-sanh Luân-hồi: tin hay chẳng tin?

III.- Vấn-đề: Phân-biệt các điều thiện ác.
124 Năm điều thiện và năm điều ác là những gì?
125 Kinh Thập-Thiện kể mười điều thiện cụ-thể hơn
126 Phải làm điều thiện từ trước
127 Trót gây điều ác, nay phải làm gì?
IV.- Vấn-đề: Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo
128 Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo gồm có những gì?
129 Bốn lãnh-vực để giữ chánh-niệm
130 Bốn sự đoạn-ý chẳng phải là Tứ-Chánh-cần
131 Phải chăng Bốn Niệm Thần-Túc là Tứ Như-ý-túc?
132 Năm căn và năm lực là những gì?
133 Bảy giác-ý hay là Bảy giác-chi?
134 Bát-Chánh-Đạo là những gì?
135 Lấy tám loại đạo-hạnh (Bát-Chánh-Đạo) làm căn-bản tu-hành.

V.- Vấn-đề: Trí-Huệ
136 Vấn-đề Trí-huệ được đặt ra ở đây như thế nào?
137 Thế nào là Trí-Huệ?
138 Trí-huệ với Bản-năng và Nghiệp-lực
139 Trí nhớ và các cách nhớ lại của con người

VI.- Vấn-đề: Các loại cảm-thọ.
140 Ba loại cảm-thọ: lạc-thọ, khổ-thọ và xả-thọ

VII.- Vấn-đề: Đắc Đạo và cõi Niết-bàn.
141 Vấn-đề đắc Đạo trong quyển ''Tì-kheo Na-Tiên''
142 Làm cách nào để học biết Đạo?
143 Bực đắc Đạo khác với kẻ chưa đắc Đạo ở điểm nào?
144 Bực đắc Đạo có những khả-năng nào?
145 Bực đắc Đạo suy-tư đến các điều cao-thâm
146 Niết-bàn là gì?
147 Sống đến bao giờ mới ''nhập Niết-bàn''?

VIII.- Vấn-đề: Phật.
148 32 tướng trang-nghiêm trên thân Phật
149 Khả-năng siêu-việt của Đức Phật

IX.- Vấn-đề: Con người và thuyết Vô-ngã
150 Thế-gian chẳng có ''người''
151 Từ nhãn-thức đến ý-thức
152 Giác-quan và tâm phối-hiệp sanh ra sướng-khổ
153 Các tâm-sở đã phối-hiệp rồi chẳng tách ra được
154 Vai trò của các giác-quan
155 Sự bất-bình-đẳng nơi loài người
156 ''Lộc riêng'' hay là chính đó là Nghiệp lực?
157 Nên có thái-độ nào đối với thân-tâm nầy?
158 Thân-tâm nầy, khi phân-tách kỹ ra, là vô-ngã
X- Vấn-đề: Các câu hỏi linh-tinh về kiến-thức tổng-quát
159 Muối, nước biển và biển
160 Tứ-đại là gì?
161 Khóc
162 Tâm-trạng của Vua Di-Lan và Tì-kheo Na-Tiên sau cuộc đàm-luận về Đạo-pháp

Vài lời xin thưa nốt...

D. Bản Phiên-âm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11605)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11920)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11089)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11328)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12047)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12543)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10741)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17958)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11704)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9928)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10156)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12336)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15314)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11217)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14309)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12067)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15300)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11981)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12383)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11147)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12061)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10589)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12540)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13137)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14769)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12630)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16520)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19614)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13089)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12638)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12220)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11811)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10874)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13467)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11919)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11821)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11611)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12743)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14487)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12584)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15640)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13589)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12868)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9843)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17987)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11139)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9050)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12151)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13026)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10276)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12163)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15276)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16575)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12184)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11440)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14243)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19649)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14134)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24559)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10662)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant