Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

B. Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ

22 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8516)
B. Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ

KINH TỲ KHEO NA TIÊN

Càn Long Đại Tạng Kinh Quyển 108, trang 706-753
Thiện Nhựt phỏng dịch và tìm hiểu

B. Phần Tìm hiểu Nghĩa Chữ

(Các chữ khó, gặp trong bản Phỏng-dịch, được sắp theo thứ-tự A,B,C để dễ tra-cứu. Các số in đậm như: 003, chỉ số của các Tiểu-mục) 

A

A-la-hán (003; 005; 022; 086): đạo-quả thứ tư, cao nhứt, của hàng Thanh-văn, đã tận-diệt các phiền-não và chứng-đắc vô-sanh (đắc quả Niết-bàn, chẳng còn tái-sanh nữa) (Pali: Arahant; Sanscrit: Arhat).

A-na-hàm (008; 022): quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-văn, còn gọi là quả Bất-Lai, nghĩa là chẳng tái-sanh trở lại cõi người nữa, mà sanh lên Trời, tiếp-tục tu sẽ chứng-đắc quả Niết-bàn. (Pali: Anagàmi; Sanscrit:Anagamin).

Ác-đạo (040): (Ác = xấu, dữ; Đạo = con đường): Ác-đạo là ba nẻo xấu-dữ trong đường tái-sanh. Đó là: (1) địa-ngục; (2) ngạ-quỉ (= quỉ đói); (3) súc-sanh (= thú-vật).

Ác-tâm (032): (Ác = xấu, dữ; tâm = lòng): lòng xấu-dữ; trái nghĩa với Thiện-tâm, lòng lành.

An-định (021): (An = yên; Định= dừng một chỗ): Tâm an-định là tâm-trạng yên-ổn, tâm chẳng nghĩ lông-bông, ý-tưởng dừng hẳn. 

An-tịnh (002): (An = yên; tịnh = sạch): yên-tĩnh và sạch-sẽ.

An-tọa (010): (An = yên; toạ = ngồi): (xin mời) ngồi yên.

Áo-não (002): buồn rầu, khóc than.

Áo trắng (010): Người áo trắng nói ở đây là nói đến các người còn ở tại nhà, tu theo phép Phật. Họ còn chưa được mặc áo vàng, dành riêng cho bực xuất-gia.

*

Â

Ân-ái (019; 038; 041; 044; 047-b; 049-a; 065): (Ân = ơn; ái = thương-yêu): niềm thương giữa vợ-chồng, sự quyến-luyến giữa trai-gái.

Ẩn-tu (007): (Ẩn = ở chỗ vắng-vẻ, ít người biết đến; tu = tu-hành): Đến nơi rừng núi xa vắng để tu-hành một mình.

*

B

Ba đường ác (007): Ba đường xấu-ác trong cõi Luân-hồi; Hán-Việt gọi là Tam ác-đạo. Đó là: (1) địa-ngục, (2) ngạ-quỉ, (3) súc-sanh.

Ba-mươi-bảy Phẩm Trợ Đạo (023): (Phẩm = Chương, mục; Trợ = phụ-giúp vào; Đạo = đường-lối tu-hành theo Chánh-Pháp): 37 chương-mục trong Kinh, phụ-giúp vào việc thông-hiểu và thực-hành việc tu-hành theo Chánh-Pháp của Đức Phật. Đó là:

1.- Tứ niệm-xứ: 4
2.- Tứ Chánh-cần: 4
3.- Tứ Như-ý-túc: 4
4.- Ngũ căn: 5
5.- Ngũ lực: 5
6.- Thất giác-chi: 7
7.- Bát-Chánh-Đạo: 8

Cộng: 37 

Bà-la-môn (004): đạo Bà-la-môn là tôn-giáo chánh-thức của cổ-Ấn-độ, tôn-thờ đức Đại-Phạm Thiên-vương (Brahma), theo giáo-lý trong Kinh Vệ-đà (Veda). Chữ Bà-la-môn (Pali: Brahmana) còn có nghĩa là giai-cấp tu-sĩ, cao-quí nhứt trong xã-hội cổ của Ấn-độ.

Bạch (016): tiếng tôn-xưng chỉ sự thưa trình lên bực trên.

Bàng-hoàng (011): Chẳng yên-tâm, lo-lắng chẳng biết vì sao lo

Bào-thai (049-c; 063; 065): (Bào = ruột; thai = thân-thể người khi mới tượng hình trong bụng mẹ): thân còn trong bụng mẹ. 

Bắc-câu-lư châu (091): Theo khoa địa-lý của Phật-học, thế-gian có ngọn núi Tu-di cao ở giữa, chung quanh có bốn châu: (1) Đông-thắng-thần châu, (2) Nam-thiệm-bộ châu, (3) Tây-ngưu-hóa châu, (4) Bắc-câu-lư châu. Chúng ta sống ở Nam-thiệm-bộ châu, còn gọi là Diêm-phù-đề (tên nước Ấn-độ xưa, vì có nhiều cây diêm-phù)

Băng-hà (009): tiếng tôn-xưng để chỉ sự chết của Vua.

Bần-cùng (061): (Bần = nghèo; cùng = túng-cùng): nghèo thiếu, khốn-cùng. 

Bất an (012): (Bất = chẳng; an = yên): tâm chẳng yên, lo-lắng.

Bất-bình-đẳng (061): (Bất = chẳng; Bình= bằng nhau; Đẳng= hàng): chẳng ngang hàng nhau, có kẻ hơn, người kém; thiếu sự công-bằng trong các hạng.

Bất-chánh (014; 062): (Bất= chẳng; Chánh= chơn-chánh; đứng-đắn): Lời nói bất-chánh là lời nói chẳng ngay-thẳng, cong-queo, chẳng đúng lẽ phải. Trái nghĩa với Chơn-chánh.

Bất-diệt (040): (Bất= chẳng; Diệt = tiêu mất): chẳng hề chết đi mất. Bất-sanh bất diệt có nghĩa là chẳng hề được sanh ra; và vì chẳng có sự sanh, cho nên chẳng thể có sự chết. Cùng nghĩa với Vĩnh-cửu.

Biện-tài (007): (Biện = tranh-biện, luận-giải; Tài = khả-năng hơn người): có tài tranh-biện, luận-giải về đạo-lý.

Bình bát (007; 097): dụng-cụ bằng sành dùng đựng thức ăn, to như các nồi đất nhỏ, các Tì-kheo mang theo để khất-thực mỗi buổi sáng.

Bố-thí (007; 046): (Bố = rộng-rãi, cùng khắp; Thí = hiến-tặng, cho): một pháp lành đem chia xẻ những gì mình có đến những ai đang cần-dùng. Hạnh bố-thí rất cao-qúí, giúp đỡ người khác thiếu-thốn, đồng-thời giúp mình bỏ được tật rít-róng, keo-kiệt. (Pali: Dana; Hán-Việt phiên-âm: Đàn-na).

Bốn chúng đệ-tử của Phật (011): đây là bốn hàng đệ-tử của Đức Phật: (1) Tì-kheo, (2) Tì-kheo-ni, (3) Ưu-bà-tắc, (4) Ưu-bà-di. Hai hạng trước đã xuất-gia; còn hai hạng sau, tu tại nhà.

Bốn đại (064): Chữ Hán-Việt là Tứ-đại, tức là bốn nguyên-tố: (1) đất, (2) nước, (3) gió, (4) lửa; gọi là đại, là lớn, vì chúng có mặt khắp mọi nơi.

*

C

Cà-sa (004; 018; 097): áo mặc ngoài của tu-sĩ Phật-giáo, màu nâu hay màu vàng. (Pali: Kàsàva; Sanscrit: Kasaya).

Cảm-thọ (042-a): (Cảm = nhận, nhiểm khi chạm đến; Thọ = chịu, lãnh). Chữ cảm-thọ trong Phật-học đồng nghĩa với chữ cảm-giác trong Tâm-lý-học. Có ba loại cảm-thọ: (1) cảm thọ vui, gọi là lạc-thọ; (2) cảm-thọ buồn, gọi là khổ-thọ (3) cảm thọ chẳng vui, chẳng buồn, gọi là xả-thọ.

Cao (075): thuốc cao, đặc sền-sệt như mỡ, dùng thoa xức.

Cao-ngạo (010): (Cao = tự-cao, xem chỉ mình là hơn; Ngạo = kiêu-căng, phách lối): thái-độ tự-cao, khinh người, phách-lối.

Căn (027; 049-b): gốc; căn-bản. Trong Phật-học, chữ căn có nghĩa là nguồn-gốc, căn-bản, nơi làm phát-sanh ra sự hiểu-biết, tương-đương với chữ giác-quan, theo nghĩa thông-thường. Theo nghĩa nầy, sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Trong đoạn văn ở trang 20, chữ năm căn lại chỉ đến Ngũ căn được nói trong 37 Phẩm Trợ Đạo, tức là (1) tín-căn, (2) tấn-căn, (3) niệm-căn, (4) định-căn, (5) huệ-căn. Bản dịch trong Hán-văn lại phối-hiệp cả hai nghĩa trên để giải-thích ý-nghĩa của chữ Năm căn, theo cách riêng.

Cần-cấp (062): (Cần = khẩn-thiết; cấp = gấp): hết-sức khẩn-thiết, cần rất gấp.

Cận-sự-nam (001): người thiện-nam (đàn-ông hiền-lành) đến chùa học Đạo và tu tại nhà, giữ ngũ-giới (năm điều răn-cấm: (1) chẳng giết-hại, (2) chẳng trộm-cắp, (3) chẳng tà-dâm, (4) chẳng nói dối, (5) chẳng uống rượu). Pali: Upasaka, Hán-Việt: Ưu-bà-tắc.

Cận-sự-nữ (001): người tín-nữ (đàn-bà có lòng tin nơi Phật-pháp) đến chùa làm công-quả, học Đạo và tu tại nhà, giữ năm điều răn-cấm. Pali: Upasika, Hán-Việt: Ưu-bà-di. (Xem chữ Cận-sự-nam).

Chánh-Pháp (009): (Chánh = chơn-chánh; Pháp = giáo-pháp). Chữ Chánh-Pháp dùng để chỉ đến giáo-pháp chơn-chánh của Đức Phật. Trái nghĩa với Tà-pháp.

Chánh-tâm (014): (Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Tâm = lòng): 

Chánh-tâm là lòng ngay-thẳng, trong-sạch. Cùng nghĩa với Tâm thanh-tịnh.

Chánh-trực (014): (Chánh = chơn-chánh, đứng-đắn; Trực = ngay thẳng): Lời nói chánh-trực là lời nói ngay-thẳng, đứng-đắn, đúng theo lẽ phải. Trái với lời nói bất-chánh.

Chế-phục (088; 092): (Chế = kềm chế, đè-nén; phục = tuân-phục, tuân theo): bắt buộc phải tuân theo, kềm-chế theo con đường chơn-chánh.

Chết yểu (061) chết non; chết đi lúc còn quá trẻ.

Chu-du (089): (Chu= vòng vòng, đi vòng quanh, khắp nơi; Du = đi): đi khắp nơi; ở đây, chữ chu-du có nghĩa là Đức Phật đi khắp nơi để giảng đạo.

Chư Thiên (001) (Chư = các, những; Thiên = Trời) = các bực Trời.

Chương (063): một loài thú rừng giống như con nai nhỏ.

Cung-phụng (097): (Cung = cung-cấp, hiến-tặng; Phụng = tuân theo) = theo ý muốn của người nhận mà hiến-tặng cho các sự-vật.

Cúng-dường (007; 089): nguyên là chữ cung-dưỡng, đọc trại ra là Cúng-dường, tức là dâng-hiến thực-phẩm, quần-áo, thuốc-men, phòng giường, cho các bực tu-hành.

Cứu-hỏa (039): (Cứu = cứu giúp; cứu chữa; Hỏa = lửa): chữa lửa.

*

D

Dạ (042-c): lòng dạ, bụng dạ.

Danh-Thân (043; 045; 046): (Danh = tên gọi; Thân = thân-thể): Hai chữ Danh-Thân ở đây dùng để chỉ vào thân-tâm con người. Giáo-lý Nam-Tông thì gọi là Danh-Sắc: Nàma-Rùpa; Danh là phần tâm-linh, tức là tâm; còn Sắc là các thành-phần vật-chất, tức là thân; hội cả hai lại gọi chung là Thân-Tâm, hay Danh-Sắc. 

Danh-tự (013): (Danh = tên; Tự = chữ): tên, danh-xưng.

Di-Lan (004; 009): tên của vị Vua đứng ra thưa hỏi giáo-lý với Tì-kheo Na-Tiên. Theo truyền-thuyết, Bồ-tát Long-Thọ (Nagarjuna), tác-giả quyển Kinh Tì-kheo Na-Tiên nầy, muốn dùng tên Di-Lan để ám-chỉ Đức Vua đương thời là Ménandre; còn tên của Tì-kheo Na-Tiên (Nagasena) để tự ám-chỉ mình. Tên vua Di-Lan, tiếng Pali là Milinda, có bản dịch là Di-lan-đà.

Do-tuần (086): phiên-âm chữ Phạn Yojana, đơn-vị đo chiều dài, ở Ấn-độ xưa, bằng 16 dặm; mỗi dặm dài 576m.

Du-ngoạn (010): (Du = đi dạo chơi; ngoạn = ngắm cảnh): đi dạo chơi ngắm cảnh.

Dư-âm (057): (Dư = thừa ra, còn sót; Âm = tiếng): tiếng vang còn kéo dài mặc dầu âm-thanh khởi lên đã dứt.

Dừng-ý (024): Dịch-giả Hán-văn dùng chữ ý-chỉ (= dừng-ý) để dịch Tứ niệm-xứ trong 37 Phẩm Trợ Đạo. Xin xem thêm chữ Tứ niệm-xứ.

*

Đ

Đại-hải (069): (Đại = lớn; Hải = biển): biển lớn; đại-dương.

Đại-Phạm-Thiên (008; 011; 086; 087; 091,): cõi Trời cao nhứt của Đục-giới, ở tầng thứ bảy. (Sanscrit: Mahà Brahma).

Đại-Tần (009): tên xứ Panjab của Ấn-độ xưa.

Đại-thần (001; 009; 090): (Đại = lớn; thần = quan): vị quan lớn.

Đạo-giả (001) (Đạo= tôn-giáo; giả = người): người theo Đạo (bất cứ đạo nào). Cùng nghĩa với chữ Đạo-nhơn (097) Đạo-gia.

Đạo-hạnh (Tám loại) (030): (Đạo = Đạo tu-hành, đạo Phật; Hạnh = đức-hạnh, giới-hạnh tu-hành): Khi nói đến Tám loại đạo-hạnh, bản dịch Hán-văn có ý nói đến Bát-Chánh-Đạo trong Phật-học. Đây là con đường Trung-đạo được giảng trong Tứ-Điệu-Đế, chỉ vào Đạo-Đế, đường-lối tu-hành để diệt nguồn-gốc của sự Khổ mà chứng-đắc Niết-bàn. Bát-Chánh-Đạo gồm có tám ngành: (1) chánh-kiến; (2) chánh tư-duy; (3) chánh-ngữ; (4) chánh-mạng; (5) chánh-nghiệp; (6) chánh-tinh-tấn; (7) chánh-niệm; (8) chánh-định. So với bản dịch Hán-văn, chỉ khác có chữ Chánh được thay-thế bằng chữ Trực; cả hai chữ nầy cũng đồng một nghĩa là: ngay-thẳng, chơn-chánh.

Đao-lợi (008): cõi Trời thứ nhì trong sáu cõi Trời Dục-giới. Pali: Tavatimsa.

Đạo-quả (003; 006): (Đạo = con đường, đường-lối tu-tập; Pali: Magga; Quả = quả-vị, ngôi-vị, kết-quả của sự tu-tập thành-công; Pali: Phala): Đắc đạo-quả là đắc được đường-lối tu-tập và tu-hành đạt được kết-quả tốt-đẹp.

Đế-Thích (008): vị vua cõi Trời Đao-Lợi. thuộc cõi Đục-giới. (Pali: Inda )

Đệ-tử (007; 077; 097): (Đệ = em; Tử = con): người học-trò theo học Đạo.

Địa-ngục (004; 007; 084; 089): (Điạ = đất; ngục = nhà tù): nơi giam-cầm các vong-linh lúc còn sống phạm các tội-ác nặng. Các hình-phạt nơi địa-ngục thật vô cùng thảm khốc, phải chịu nhiều đời kiếp chờ đến khi hết tội mới được tái-sanh lại.

Đọa (084; 089): rơi xuống dưới; thường viết: sa-đọa = lọt xuống dưới

Đoạn-ý (025): (Đoạn = cắt đứt, dừng hẳn lại, tiêu mất đi; Ý = ý-nghĩ, tư-tưởng): phép dừng ý lại và chận đứng được các vọng-tưởng khởi lên.

Độ-thoát (006): (Độ = đưa qua sông; Thoát = vượt qua khỏi): được giác-ngộ và giải-thoát; tức là diệt xong các phiền-não và chứng-đắc được vô-sanh (chẳng còn phải tái-sanh trong Luân-hồi).

Đồng-hành (016): (Đồng = cùng; Hành = đi): cùng đi với.

Động-tâm (005): (Động = chuyển-động, khởi lên; tâm = lòng): trong tâm khởi lên một ý-nghĩ, hay một tình-cảm. Trái nghĩa với Tĩnh-tâm.

*

G

Giả-thiết (083): nói giả-tỉ, nói thí-dụ như...

Giác-quan (053; 060): (Giác= biết; Quan= cơ-quan, bộ-phận):

Bộ-phận trong thân người có nhiệm-vụ hay biết được sự-vật bên ngoài, hay bên trong. Phật-học phân-biệt sáu giác-quan, còn gọi là sáu căn như mắt (thấy), tai (nghe), mũi (ngửi), lưỡi (nếm), thân (xúc-chạm), tâm-ý (hay biết ý-nghĩ bên trong). Cùng nghĩa với Căn.

Giác-tri (054; 054): (Giác= biết; Tri = biết): hay-biết.

Giác-ý (Bảy) (029): (Giác= biết rõ; ý= ý-tưởng): bảy ngành của sự giác-ngộ; trong 37 Phẩm Trợ Đạo gọi là Thất giác-chi: (1) trạch pháp, lựa chọn pháp-tu; (2)tinh-tấn, nỗ-lực tu-hành; (3) Hỷ, mừng; (4) khinh-an, tâm nhẹ-nhàng; (5) niệm, lòng thường nhớ-nghĩ đến pháp-tu; (6) định, tâm-ý dừng trụ lại;(7) xả, nơi mọi cảnh-ngộ chẳng hề thương, chẳng hề ghét, có được tâm bình-đẳng.

Trong bản dịch Hán-văn, Bảy giác-ý là: (1) ý-giác-ý, nghĩa là hiểu rõ ý-nghĩa của pháp-tu; (2) phân-biệt giác-ý, nghĩa là biết phân-biệt rành-rẽ giữa các pháp-tu; (3) tinh-tấn giác-ý, nghĩa là nỗ-lực tu-hành thêm hơn; (4) khả-giác-ý, nghĩa là tâm được sảng-khoái, khả-quan; (5) ỷ-giác-ý, nghĩa là tâm được an-vui; (6) định-giác-ý, nghĩa là tâm đắc định-lực, bỏ được sự buông-thả; (7) hộ-giác-ý, nghĩa là giữ-gìn, bảo-vệ, dẹp mọi khuyết-điểm.

Giáo-Pháp (097): (Giáo= dạy; Pháp= các phép tu-hành): Lời dạy về tu-hành. Giáo-Pháp của Đức Phật được gọi là Chánh-Pháp.

Giới (005; 040; 069; 075; 078; 083; 092): Các điều răn-cấm do Đức Phật đặt ra, kẻ tu-hành cần tuân theo, để tránh các tội-ác. Có Ngũ-giới dành cho cư-sĩ tu tại nhà; Thập-Giới dành cho Sa-di, Cụ-túc-giới (250 điều cho Tì-kheo và 348 điều cho Tì-kheo-ni), Bồ-tát-giới có 10 điều trọng-cấm và 48 điều khinh-cấm. (Phạn: Sila).

Gốc (048; 049): (Gốc = nguồn-gốc, căn-bản; dịch từ chữ Hán-Việt là bản; Hữu bản-giả = người có gốc; Nhơn sanh-tử bản = cái gốc sanh-tử của con người.

*

H

Hạ-tiện (061): (Hạ = ở dưới thấp; tiện = hèn-hạ;): thấp hèn.

Hải-biên (009): (Hải = biển; Biên = cạnh, bià): Tại hải-biên có nghĩa là ở dọc theo ven biển.

Hào-quí (061): (Hào = có thế-lực; quí = sang): bực sang-giàu, có thế-lực trong xã-hội.

Hành-đạo (008): (Hành = làm, đi ): Hành đạo là ra đi giảng-dạy đường lối tu-hành trong dân-chúng. 

Hạ-thần (010): (Hạ = ở dưới; thần= quan){ tiếng khiêm-nhường tự-xưng của một vị quan, đối với Vua; tự xem mình là vị quan nhỏ.

Hào-quang (076): vầng ánh-sáng rực-rỡ tỏa ra từ thân-hình.

Hầu-cận (010; 097): (Hầu= hầu-hạ; cận = gần); các người đi gần theo bên cạnh để hầu-hạ.

Hậu-cung (018): (Hậu = ở phiá sau; Cung = cung-điện): ở cung sau, thường dành cho các phi-tần, phụ-nữ trong đền Vua.

Hiệp-tụ (013): (Hiệp= hợp lại; gom lại; Tụ= tụ-hội lại): gom chung lại các phần nhỏ, khác nhau, thành chung lại một đơn-vị lớn.

Hiếu-thuận (020; 031; 061): (Hiếu = biết ơn cha-mẹ và ăn-ở phải đạo làm con; Thuận = chẳng trái nghịch với; theo đúng): Chữ Hiếu-thuận theo nghĩa thông-thường là làm con ăn ở phải đạo với cha-mẹ, biết ơn, thương-mến và phụng-dưỡng cha-mẹ. Nơi đoạn văn nầy, dịch-giả tiếng Hán có lẽ dùng chữ hiếu-thuận để dịch chữ giới-hạnh trong Chánh-văn chăng?

Hình-sắc (049-b): (Hình = hình dạng; sắc = màu sắc): Hình-dạng và màu sắc của các vật mà mắt nhìn thấy.

Hoan-hỉ (007; 008; 011; 097): vui mừng.

Hỏi bí (010): Hỏi khó, khiến người bị hỏi chẳng thể trả lời được.

Hộ-tống (010): (Hộ = bảo-vệ, Tống = đưa đi theo): cùng đi theo để bảo-vệ.

Hồi-cung (015): (Hồi = trở về, quay về; Cung= đền): Hồi cung là trở về cung-điện.

Hối-cải (089; 090): (Hối = ăn-năn, hối-tiếc; Cải = sửa đổi): biết lỗi nên chịu sửa đổi, và hứa chẳng tái-phạm nữa.

Hội-chúng (007): (Hội = tập-họp đám đông; chúng = số đông): đoàn-thể, hội-họp. Hội-chúng, ở đây, là đoàn-thể các tì-kheo.

Hội-kiến (010): (Hội = cùng gặp nhau; kiến = thấy): gặp nhau để bàn việc với nhau.

Hủy-phạm (040): (Hủy = bỏ đi, làm cho hư; Phạm = lỡ làm trái ngược lại): Hủy-phạm là chẳng tôn-trọng và làm ngược lại, cố tình làm cho tiêu mất đi.

Hư-không (095): (Hư = chẳng thật, hư-dối; Không = rỗng-rang, vắng-lặng): cõi không-gian vắng-lặng, rỗng-rang. Xin xem thêm chữ Không.

Hữu-trí (047-b; 049-c): (Hữu = có; Trí = đem tới): Chữ hữu-trí, trong đoạn văn này, nghĩa đen là có đưa tới, có đem lại. Nếu ta hiểu theo nghĩa rộng, hữu trí là có sự truyền-đạt từ một sự-việc nầy đưa tới, hoặc đem lại, một sự-việc khác.

*

K

Kiên-cố (033): (Kiên= cứng; cố= bền vững): bền vững, giữ lâu.

Kiên-trì (033): (Kiên= cứng; Trì= giữ): giữ-gìn bền-vững.

Kiện-tướng (040): (Kiện = mạnh-mẽ; Tướng = người cầm đầu quân-lính): vị tướng-quân mạnh-mẽ và tài-giỏi.

Kinh (069, 075, 078; 079, 083): bản văn chép lại lời dạy của chư Phật, Bồ-tát, được ghi lại trong Đại-Tạng. Thí dụ như Kinh Kim-Cang, Kinh Pháp-Cú. (Pali: Sutta Sanscrit: Sutra; Hán-Việt: Khế-Kinh.)

Kềm-chế (028; 033): giữ-gìn cho đúng; Kềm-chế cùng nghĩa với chữ Khắc-phục (011).

Kệ (005): bài văn ngắn, thường là bốn câu thơ, tóm-tắt lại lời Phật đã giảng trong Kinh. (Pali, Sanscrit: Gatha).

Kỳ-thọ Cấp-cô-độc (001): Kỳ-thọ là các hàng cây cổ-thọ của Thái-tử Kỳ-đà; Cấp-cô-độc là danh-hiệu của vị trưởng-giả giàu-có xây cất chùa Kỳ-viên để Đức Phật và các vị Tì-kheo trú-ngụ. Nguyên Thái-tử Kỳ-đà có khu vườn đẹp-đẽ, ông Cấp-cô-độc muốn mua đế cất tịnh-xá. Thái-tử bảo, chở vàng lót khắp mặt đất thì bán cho. 

Ông Cấp-cô-độc lót vàng khắp vườn, chỉ trừ các hàng cây cổ-thọ lót vàng lên chẳng được. Thái-tử chẳng nhận vàng, hiến luôn khu vườn; vì thế chùa Kỳ-viên được gọi là đã xây cất trong vườn Kỳ-thọ Cấp-cô-độc. (Phạn: Jetavana).

Kỹ-nữ (018): (Kỹ = khéo-léo; nữ = phụ-nữ; đàn-bà, cô gái): các phụ-nữ múa hát trong cung Vua.

Kỵ-sĩ (010): (Kỵ= cỡi ngựa; Sĩ = binh-sĩ): các binh-sĩ cỡi ngựa.

Khai-ngộ (014; 017): (Khai = mở ra; Ngộ = hiểu rõ): Khai-ngộ, có nghĩa là mở rộng tấm lòng ngay-thẳng ra để hiểu biết được Chơn-Lý.

Khan (016): tiếng Hán-Việt, có nghĩa là keo-kiệt, quá hà-tiện.

Khanh (013; 017; 052; 064): Tiếng nhà Vua gọi các quan; hoặc tiếng gọi nhau thân-mật.

Khắc-phục (011): chế-phục được; thắng được khiến cho kẻ kia phải chịu đầu-hàng, tuân theo ý mình.

Khất-thực (007): (Khất = đi xin ăn; Thực = ăn): Theo Giới-Luật của nhà Phật, các Tì-kheo chẳng được có nghề mưu-sanh riêng, mỗi sáng phải đi xin ăn, gọi là khất-thực, để nuôi mạng sống mà tu-hành. Đó là dịp để tu-sĩ dẹp lòng tự-ái, và đồng thời gieo duyên giáo-hóa với dân-chúng cùng tạo phước lành bố-thí cho họ.

Khấu đầu (007): (Khấu = cúi xuống ): cúi đầu sát xuống làm lễ.

Khoái-lạc (012; 054): (Khoái = sướng; lạc = vui): điều sướng-khoái, điều vui-sướng.

Không (017; 039; 040): Chữ Không, tiếng Hán-Việt, có nghĩa khác và rộng hơn chữ không trong tiếng Việt thuần-túy. Chữ không của tiếng Việt có nghĩa phủ-định, là chẳng có. Chữ Không trong tiếng Hán-Việt có nghĩa là rỗng-rang, chẳng chứa đựng gì, chẳng dính-mắc vào đâu, vắng-vẻ, an-tịnh. Xin đừng lầm chữ Không với hai nghĩa quan-trọng đó.

Khổ (039; 040; 047-b; 049-c; 049-c): Chữ Khổ được dùng để dịch chữ Pali dukkha với nghĩa là gây ra sự khó-nhọc, đau-đớn về thể-chất, hoặc về tinh-thần; đôi khi được dịch ra là bất-toại-nguyện, tức là chẳng làm vừa-ý. Trong Kinh Chuyển Pháp-Luân, bản Kinh đầu-tiên do Đức Phật thuyết-giảng, về Bốn Chơn-Lý Nhiệm-mầu (Tứ Diệu Đế), trong đó Khổ-đế (chơn-lý về sự Khổ) kể rõ những gì làm cho con người phải khổ-sở trong cuộc sống.

Khởi-phát (052): (Khởi = nổi lên, mới bắt đầu; Phát = sanh ra, bộc lộ ra): bắt đầu sanh ra. Cùng nghĩa với Khởi-sanh (052).

Khởi-thủy (083): (Khởi = nổi lên, phát-sanh ra; Thủy = lúc mới bắt đầu): xưa kia lúc mới vừa bắt đầu có thế-gian.

*

L

La-hán (086): Xin xem chữ A-la-hán.

Lảu-thông (009): biết thật rành-rẽ.

Lâm thời (062): (Lâm = khi xảy đến; Thời = lúc): lúc xảy đến.

Lâm trận (062): (Lâm = đi vào, đến;Trận = trận chiến): khi đánh nhau; xông vào trận chiến. 

Liên-tục (037): (Liên = kế theo sau; Tục = tiếp-tục): kế tiếp theo sau chẳng dứt.

Lộc riêng (063): (Lộc = phước, bổng-lộc, lương-bổng). Chữ Lộc dùng trong đoạn-văn nầy có hàm nghĩa là phước riêng được dành sẵn từ trước. Dựa theo ý-nghĩa đó, Thiện-Nhựt tôi nghĩ có lẽ chữ Lộc nầy tương-đương vói chữ Nghiệp-lực, tức là những ảnh-hưởng tích-lũy sẵn do những hành-động cố-ý cũ trong các đời trước đã tạo nên.

Lưu-luyến (044): (Lưu = giữ còn lại; Luyến = mến thích): còn mến thích mãi.

Lưu-ly (033): ngọc trong-suốt tựa như chất pha-lê (kiếng).

*

M

Mặc-nhiên (007): (Mặc = im-lặng; nhiên = tự-nhiên): Giữ sự im-lặng, có ý ngầm chấp-nhận.

Mâu thương (075): (Mâu = binh-khí xưa, gậy dài có mũi nhọn; Thương = Sang = binh-khí xưa, gậy sắt dài có mũi nhọn): hai loại binh-khí xưa dùng để đâm.

Mục-tiêu (007): (Mục = con mắt, chỗ mắt nhìn chăm-chú đến; tiêu = cái mốc, chỗ đang được nhắm vào): chỗ đang nhắm vào để bắn; gần nghĩa với chữ mục-đích.

*

N

Na-Tiên (001): tên của vị Tì-kheo giảng-giải giáo-lý cho Vua Di-Lan. (Pali: Nagasena). Đây là một tên tưởng-tượng của tác-giả quyển ''Kinh Tì-kheo Na-Tiên''. Cách sách Luận cho rằng, Bồ-tát Long-Thọ (Phạn: Nagarjuna) người sáng tác ra quyển sách nầy, đã muốn dùng cái tên Na-Tiên đó để ám-chỉ chính mình, khi đối-đáp với Vua.

Nê-Hoàn (007; 011; 041; 046; 049-c; 049-c) còn đọc là Niết-bàn. Phiên-âm từ chữ Pali: Nibbàna; Sanscrit: Nirvana, có nghĩa là ra khỏi rừng u-tối; tức là đã tận-diệt hết các phiền-não, chứng-đắc được vô-sanh (chẳng còn phải tái-sanh trong Luân-hồi), được tự-tại trong cảnh vắng-lặng, an-vui. Cùng nghĩa với chữ Hán-Việt: Viên-tịch. 

Ni (001): nữ tu-sĩ theo đạo Phật. Còn gọi là Tỳ-kheo-ni.

Niệm (077; 088): Chữ Niệm, dùng như danh-từ, có nghĩa là tư-tưởng, ý-nghĩ; dùng như động-từ, có nghĩa là nhớ nghĩ lại trong lòng. Chữ niệm ở đoạn văn trang 63, có nghĩa là còn có tư-tưởng khởi lên trong tâm, tức là tâm còn chưa đến mức vắng-lặng, thanh-tịnh như tâm của Đức Phật.

Niệm-Đạo (001) (Niệm = nhớ nghĩ luôn trong lòng; Đạo, ở đây là Chánh-Pháp): suy-tưởng đến Chánh-Pháp.

Niết-Bàn (007; 011; 065; 074): chung một nghĩa với chữ Nê-Hoàn ở trên. 

Ngà voi (002): đôi răng nanh của voi, dài và trắng, trông như cặp sừng.

Ngạ-quỉ (004; 007): quỉ đói. (Pali: Peta; Sanscrit: Preta). Đây là một hạng chúng-sanh thuộc đường dữ, thân hình ốm-o, bụng to, cổ nhỏ, luôn luôn đói khát.

Ngày trai (003): những ngày ăn chay, giữ giới của bực tu-hành. Sáu ngày trai trong tháng là: mồng 1, 8, 14, rằm, 23 và 29 hoặc 30. Tiếng Hán-Việt gọi ngày trai là trai-nhựt.

Ngàm vành xe (013): lỗ hỗng trong vành bánh xe, nơi trục xe nằm xuyên qua, để chịu đựng sức nặng của xe.

Nghiệp (071): Chữ Nghiệp trong Phật-học, dùng để dịch chữ Pali: kamma; chữ Sanscrit: Karma, để chỉ ảnh-hưởng còn lưu lại của các hành-động cố-ý cũ đã qua trong đời trước hay đời nầy, làm thay-đổi cuộc sống hiện-tại và mai sau. Hễ làm lành, thì được nghiệp thiện; hễ làm ác, thì bị nghiệp-ác. Bực A-la-hắn đã dứt hết nghiệp, nên chẳng cón phải tái-sanh nữa trong cõi Luân-hồi.

Ngoại-đạo (009): (Ngoại = ngoài; đạo = đây là đạo Phật): các tôn-giáo khác, chẳng theo đạo Phật. Xin lưu-ý chữ Ngoại-đạo chẳng hề có ý-nghĩa xấu là tà-ma, mê-tín, như thường nói tà-ma ngoại-đạo.

Ngưỡng-mộ (011): Kính-mộ; yêu-mến và kính-trọng.

Ngũ cốc (062): (Ngũ = năm; cốc = lúa): năm loại thóc lúa như gạo, nếp, đậu, luá mạch, luá kê.

Nhập Niết-bàn (002): (Nhập = vào; Niết-bàn = cõi vắng-lặng) Theo nghĩa thông-thường là chết đi. Xin xem thêm chữ Niết-bàn.

Nhập-tâm (018): (Nhập = đi vào; tâm = lòng): đã ăn sâu vào lòng; đã thuộc nằm lòng.

Nhàn-tịnh (001) (Nhàn =chẳng bận rộn; tịnh= êm-ả): thanh-vắng, chẳng bị khuấy-động. Đồng nghĩa với An-tịnh.

Nhiễu (002): đi vòng quanh, theo chiều kim đồng-hồ, để tỏ lòng kính-trọng đối với bực đang ngồi tại đó.

Nhứt-nhứt (058; 097): (Nhứt = một): mỗi mỗi đều tuân theo, từng món một.

Nhứt-tâm (019; 034; 082; 082; 088; 092): (Nhứt = một; Tâm = lòng): một lòng chú-ý đến; chuyên-tâm nhớ nghĩ luôn đến.

Nội-động (057): (Nội = bên trong; động = chuyển-động, khởi-động): sự chuyển-động bên trong tâm, tức là khởi lên ý-nghĩ, hoặc tình-cảm.

Nội-tâm (047-b; 049-c; 049-c; 065) (Nội = bên trong; tâm = lòng): bên trong tâm, trong lòng.

*

P

Phạm-Thiên (077): (Phạm = phiên-âm chữ Phạn là Brahma, Trời Phạm; Thiên = Trời): cõi Trời cao nhứt thuộc Dục-giới, ở từng thứ bảy.

Phạm-hạnh (077): (Phạm = vua Trời Đại-Phạm; Hạnh = đức-hạnh) = đức-hạnh của đấng Phạm-Thiên.

Pháp (024): Chữ Pháp trong Phật-học có nghĩa rất rộng:

1.- Pháp là đường-lối tu-hành, như chữ pháp-môn.

2.- Chánh-Pháp là lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong Kinh-Tạng. Như chữ Giáo-Pháp.

3.- Pháp với nghĩa tổng-quát trong tiếng Pali dhamma chỉ vào tất cả mọi sự-vật, có hình hay chẳng có hình. Thí-dụ: pháp-giới.

Phật (001): bực đã giác-ngộ và giải-thoát hoàn-toàn. (Phạn: Buddha). Phật là bực đã tự-mình giác-ngộ (tự-giác), đem chỗ giác-ngộ ra chỉ-dạy cho chúng-sanh (giác-tha), và công-cuộc hoá-độ chúng-sanh của Ngài đã hoàn-thành viên mãn (giác hành viên-mãn). Chỉ riêng Đức Phật mới có đủ mười danh-hiệu tôn-quí (thập hiệu): Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhơn-sư, Phật, Thế-tôn.

Phối (047-b; 049-b; 053): Chữ phối, dùng như một động-từ, có nghĩa là kết-hiệp nhiều sự-vật chung lại thành một; nếu dùng như danh-từ, chỉ nhiều sự-vật được hiệp chung lại thành một sự-vật hỗn-hợp.

Phục-sanh (044): (Phục = trở lại; sanh = sanh, sống): sanh, sống trở lại.

Phụng-hành (007; 040; 066; 069; 075; 078; 083): (Phụng = tuân theo; Hành = làm): tuân theo lời dạy mà hành-động, ăn ở đúng đạo-lý.

*

Q

Quá-khứ (006; 007; 009; 034; 047; 083) (Quá = đã qua; Khứ = đi qua rồi): việc cũ qua rồi; thời-gian đã qua.

Quan-đạo (009): đường cái-quan, đường quốc-lộ.

Quán (024): chuyên-tâm suy-nghĩ kỹ-lưỡng, cứu-xét cẩn-thận về một đề-tài. Kinh-sách thường dùng chữ Quán-chiếu.

Qui-hướng (096): (Qui = quay về; Hướng = chiều-hướng; phương-hướng): quay về theo chiều-hướng nào đó.

Quí-nhơn (018): (Quí = tôn-quí, cao-sang; Nhơn = người): các người đẹp, cao-quí; ở đây chỉ các vị phụ-nữ, hoàng-phi, công-chúa, v.v. trong cung Vua.

*

R

Rượu bồ-đào (009): một thứ rượu nho quí giá, rất ngon.

*

S

Sa-di (006): người còn nhỏ tuổi được thọ-giới vào chùa tập-sự tu-hành; đến khi đủ hai mươi tuổi mới được thọ Cụ-túc-giới làm Tì-kheo. (Pali: Sàmanera; Sanscrit: Sramanera).

Sa-môn (003; 009; 014; 016; 064; 075; 084; 092): phiên-âm chữ Phạn, nghĩa là tu-sĩ theo đạo Phật. Pali: Sàmana; Sanscrit: Sramana). Chữ sa-môn có ba nghiã: (1) cần-giả: người siêng làm điều thiện; (2)tức-giả: người ngưng mọi việc ác; (3)bần-giả: người nguyện cam chịu nghèo-khó để tu-hành.

Sám-hối (007): (Sám, phiên-âm chữ Phạn Ksamayati, có nghĩa ăn-năn, hối-tiếc lỗi đã qua; Hối, chữ Hán-Việt, có nghĩa là hối-tiếc, tiếc rẽ vì đã lầm phạm tội): tỏ lòng hối-tiếc tội lỗi lỡ phạm và xin hứa chẳng tái-phạm nữa.

Sảng-khoái (069): vô cùng thích-thú, vui-sướng.

Sanh-tử (035): (Sanh = sống; Tử = chết) = lẽ sống chết.

Sơ-sanh (037): (Sơ = lúc khởi đầu; Sanh = sanh ra): lúc mới vừa sanh ra.

Sở-niệm (049-c; 056): (Sở = chỗ, nơi; Niệm = nhớ-nghĩ): chỗ đang nhớ nghĩ đến trong lòng.

Sở-tác (056): (Sở = chỗ, nơi; Tác= làm): chỗ đã làm, công-việc đã làm.

Súc-sanh (004; 007): loài thú vật thiếu trí-huệ.

Sư-phụ (007; 068): (Sư = thầy dạy; Phụ = cha): vị thầy dạy Đạo.

*

T

Tác-chiến (062): (Tác = làm; chiến = tranh đấu, chống giặc): chiến-đấu chống lại giặc-giã.

Tai-ương (089; 090): (Tai = tai-nạn, tai-hoạ; Ương = hoạ, hại): tai-nạn, tai-họa khiến cho phải chịu khổ-sở.

Tái-sanh (037; 043; 069; 073; 087) (Tái = lại lần nữa; Sanh = sanh sống): sanh trở lại cõi Luân-hồi; sanh rồi chết, rồi lại sanh chết nữa chẳng dứt.

Tăng (001): nam tu-sĩ đạo Phật.

Tâm-linh (096): thuộc về tinh-thần, vô-hình.

Tâm-nguyện (006): (Tâm = lòng; nguyện = nguyền, hứa giữ gìn trong lòng): điều mình hứa hay mong-cầu, sẽ giữ mãi trong lòng.

Tâm-niệm (058; 079; 098): (Tâm = lòng; Niệm = ý-nghĩ): ý-tưởng nhớ-nghĩ trong lòng.

Tận-diệt (036): (Tận = dứt hết chẳng còn gì; diệt = làm cho tiêu mất đi): dẹp cho hết tận gốc-rễ.

Tì-kheo (001, 089): nam tu-sĩ theo đạo Phật. (Phạn: Bhikkhu). Còn nữ tu-sĩ Phật-giáo gọi là Tì-kheo-ni (Phạn: Bhikkhuni). Tiếng miền Bắc gọi là Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni.

Tiền-vương (068): (Tiền = trước; Vương = vua): các vị Vua đời trước.

Tinh-tấn (007; 032; 040; 088): (Tinh = chuyên-tâm; tấn = tiến lên): Cố-gắng hơn lên để có tiến-bộ; ráng sao cho điều lành được tăng thêm.

Tinh-yếu (011; 018): (Tinh = điều cốt-lõi; phần quan-trọng nhứt; Yếu = trọng-yếu, quan-trọng nhứt): điều hết sức quan-trọng, thiết-yếu nhứt.

Tiền-kiếp (004): (Tiền = trước; kiếp = đời sống): Tiền-kiếp là các đời sống trước trong quá-khứ, trước khi sanh ra hiện nay.

Tiếp-viện (032): (Tiếp = cứu-giúp; Viện = viện-trợ, đem đến giúp): Tiếp-viện là gởi thêm binh-sĩ để đánh thắng giặc.

Tịnh-khiết (021): (Tịnh, Khiết = trong-sạch) = trong-sạch.

Thái-tử (004; 009): (Thái = lớn, trưởng; Tử = con): vị hoàng-tử lớn nhứt, sẽ lên nối ngôi Vua cha.

Tham-ái (019): (Tham = ham muốn quá độ; ái = thương-yêu): sự ham-muốn quá-độ, sự yêu-thích quá mức.

Tham-dâm (021): (Tham = ham muốn quá mức; dâm = sự giao-hợp giữa nam-nữ): quá ham-mê sự dâm-dục trai-gái.

Tham-dục (022): (Tham = ham muốn quá mức; Dục = ham muốn): lòng ham-muốn quá mức.

Tham-tâm (038; 080): (Tham = ham muốn quá mức; Tâm = lòng): lòng còn ham muốn quá mức.

Tham-vấn (015): (Tham = dự vào; Vấn = thưa hỏi): Cùng nhau thưa hỏi với nhau.

Thanh-thủy-châu (021): (Thanh = trong-sạch; Thủy = nước; châu = hòn ngọc): Hòn ngọc có tánh-chất lọc nước đục cho trong-trẻo lại, cho tinh-khiết hơn.

Thanh-tịnh (001; 021) (Thanh = trong; Tịnh = sạch): trong-sạch.

Thanh-văn: (Thanh = Thinh = âm-thanh; Văn = nghe): các đệ-tử sống gần bên Đức Phật, nhờ nghe Kinh, tu-tập theo Tứ-Diệu-Đế (và Bát-Chánh-Đạo) mà đắc các quả-vị Thánh, từ Tu-đà-huờn đến A-la-hán. (Pali: Sàvaka; Sanscrit: Sravaka)

Thành-tín (020): (Thành = thành-thật; Tín = tin-tưởng): niềm tin thành-thật và vững-chắc.

Thâm-ảo (094): (Thâm = sâu; Ảo = huyễn; xem như thật mà chẳng thật): sự-việc huyền-bí sâu-xa.

Thâm-diệu (007; 069; 094; 096) (Thâm = sâu; diệu = nhiệm-mầu): Kinh thâm-diệu là Kinh cao, sâu-xa và nhiệm-mầu.

Thẩm-định (016): (Thẩm = xét kỹ; định = quyết-định): xét kỹ lại và quyết-định.

Thâm-trọng (006): (Thâm = sâu; trọng = nặng): Lời thề-nguyện thâm-trọng là lời thề nặng-nề, thâm-sâu, quan-trọng lắm.

Thân-mạng (080): (Thân = thân-thể; mạng = mạng sống): mạng-sống của thân-thể con người.

Thần-trí (096): (Thần = tinh-thần, phần vô-hình; Trí = trí-óc): phần tinh-thần biết suy-nghĩ.

Thần-túc (026; 091): (Thần= tinh-thần; thần-thông; Túc có hai nghiã: (1) dùng như tĩnh-từ, Túc là đầy-đủ; (2) dùng như danh-từ, Túc là chơn để bước đi). Bốn niệm thần-túc là bốn tâm-trạng của bực tu-hành đã đắc thần-thông, hễ khởi lên ý-định là có được đầy-đủ như ý-nguyện; thí-dụ như muốn đến một nơi xa, có thể bay đi ngay trong không-khí. Chữ thần-túc (091, 73) lại có nghĩa là có bước chơn thần, di-chuyển thật nhanh-chóng, đến các cõi khác.

Thập-Giới (006): (Thập = mười; Giới = điều răn-cấm): Mười giới mà Sa-di phải tuân theo: (1) chẳng sát-hại; (2) chẳng trộm-cắp, (3) chẳng dâm-dục, (4) chẳng nói dối, (5) chẳng uống rượu, (6) chẳng trang-sức, (7) chẳng xem múa hát, (8) chẳng nằm giường cao, (9) chẳng ăn quá giờ Ngọ (12 giờ trưa), (10) chẳng cầm tiền-bạc.

Thiên-Trúc (004; 008): tên của nước Ấn-độ cũ.

Thiển-cận (042): (Thiển = cạn; Cận = gần). Trí-óc thiển-cận là trí-óc còn cạn-cợt và chẳng thấy được xa.

Thiện (020): lành, tốt, khéo.

Thọ Giới (005, 006; 017): (Thọ = nhận lãnh; Giới = giới-luật): nhận điều răn-cấm của Đức Phật đặt ra, để tránh các tội-ác.

Thọ-mạng (004): (Thọ = tuổi thọ; Mạng = mạng sống): Thọ-mạng là mạng sống theo tuổi thọ.

Thọ-thần (001): (Thọ = cây to lớn, lâu đời; thần = thần-linh, các bực vô-hình có sức mạnh linh-thiêng): các vị thần-linh sống trên cây.

Thông-đạt (007; 009; 011): (Thông = thông-suốt; đạt = đắc được): hiểu thật rõ ràng đến tận cả nghĩa sâu-kín.

Thủy-tộc (063): (Thủy = nước; tộc = nòi giống): loài sanh-vật sống dưới nước.

Thừa sự chư Phật (003): Thừa sự là phụng-thờ, phục-vụ. Thừa sự chư Phật có nghĩa là theo hầu-hạ chư Phật; ở đây có nghĩa là tuân-hành theo các lời dạy của chư Phật.

Thức (047; 051): biết, sự hay-biết. Giáo-lý Nam-Tông phân-biệt sáu thức: (1) nhãn-thức, cái biết do mắt thấy; (2) nhĩ-thức, cái biết do tai nghe; (3) tị-thức, cái biết do mũi ngửi; (4) thiệt-thức, cái biết do lưỡi; (5) thân-thức, cái biết do da trên thân; (6) ý-thức, cái biết trong lòng. Giáo-lý Bắc-Tông có thêm hai thức nữa: (7) mạt-na-thức, còn gọi là truyền-tống-thức, có nhiệm-vụ chuyển-đạt cái biết từ ngoài vào trong, và từ trong ra ngoài, lại hay chấp-ngã; (8) a-lại-da thức, còn gọi là tàng-thức, có nhiệm-vụ gìn-giữ các chủng-tử (= hột giống của các hành-vi cũ) nên còn được gọi là nghiệp-thức.

Thường-tại (040): (Thường = còn hoài, chẳng biến-đổi, chẳng tiêu-diệt; Tại = ở đó): Thường-tại là vẫn giữ nguyên, chẳng bị thay-đổi, chẳng bị hủy-hoại. Cùng nghĩa với Thường-còn; Thường-hằng; Hữu-thường. Trái nghĩa với Vô-thường. 

Thường-hằng (051): (Thường = còn hoài, chẳng thay-đổi; hằng = luôn luôn như vậy là như vậy): cùng nghĩa với Thường-còn, Thường-tại. Trái nghĩa với Vô-thường.

Thượng-điện (018): (Thượng = trên; Điện = cung-điện): cung-điện lớn ngoài đền Vua, chỗ Vua ngự.

Thượng-Tọa (006): (Thượng = trên; Tọa = ngồi). Theo cấp-bực trong Phật-giáo Bắc-tông, từ Sa-di lên Đại-đức (từ 10 tuổi-hạ đến 20 tuổi-hạ) rồi tới Thượng-Tọa (có ít nhứt 30 tuổi-hạ) và đến Hoà-thượng (trên 40 tuổi-hạ). Dự một khóa An-cư Kết-hạ là được một tuổi-hạ.

Tòng theo (037; 040): dựa theo đó mà tiến-triển; do theo lý-do đó mà thay đổi.

Tối-thượng (014): (Tối = hết sức; rất; Thượng= cao): Tối-thượng là cao nhứt, trên đó chẳng gì cao hơn nữa.

Tối-yếu (018): (Tối = hết sức, trội nhứt; yếu = quan-trọng; trọng-yếu): điều quan-trọng bực nhứt.

Tràng hoa (033): bông hoa kết lại thành xâu, thành chùm.

Trân-bảo (009; 033): tiếng gọi chung các thứ châu, ngọc quí-báu.

Triển-chuyển (037; 047; 051): (Triển = lớn lên; Chuyển = biến-chuyển): lớn lên thay đổi theo thời-gian; phát-triển và biến-chuyển.

Trú-sở (016): (Trú = ở; sở = nơi, chỗ): nơi ở, chỗ cư-trú.

Trụ (034): đứng dừng lại, chẳng di-chuyển. 

Trụ-trì (006): (Trụ = đứng dừng lại; Trì = giữ-gìn): Vị Sư trụ-trì là vị Sư trưởng-thượng và coi sóc một ngôi chùa.

Trục xe (013): thanh sắt xuyên qua hai bánh xe, để giữ vững chiếc xe.

Trục-xuất (007; 007): (Trục = đuổi đi, đưổi theo; Xuất = ra khỏi): ở đây, trục-xuất là đuổi đi ra khỏi chùa.

Trung-chánh (010; 062): (Trung = ngay chính giữa; Chánh = ngay thẳng, chơn-chánh, đứng-đắn): Hạnh trung-chánh nói ở đây chính là noi theo con đường Trung-Đạo của Đứ c Phật, được thể-hiện bằng Bát-Chánh-Đạo. Xin xem thêm chữ Bát-Chánh-Đạo.

Truyền-đạt (047-b; 049-b): (Truyền = truyền sang, chuyển đến; đạt = nhận được, tới nơi) = Truyền-đạt có nghĩa là có sự di-chuyển từ một sự-vật nầy đến một sự-vật khác. Tại trang 37, chữ Truyền-đạt được dùng để dịch chữ Hán-Việt Hữu-trí.

Trừ-bị (062; 085): (Trừ = lấy riêng ra, bớt; Bị = để dành, phòng-hờ): quân-lính dự-bị sẵn, ở nhà chờ lịnh gọi ra chiến đấu.

Trữ (038): cất lại để dành về sau.

Trực (030): ngay thẳng. Trực-kiến là nhìn thấy ngay-thẳng. Trực-niệm là suy-nghĩ ngay-thẳng. Trực-ngữ là lời nói ngay-thẳng. Trực-mạng là lối mưu-sanh ngay-thẳng. Trực-nghiệp là hành-động của thân, miệng, và ý đều ngay-thẳng. Trực phương-tiện là phương-cách làm việc ngay thẳng. Trực-ý là tư-tưởng ngay-thẳng. Trực-định là tu đắc định ngay-thẳng (trái với tà-định). 

Trước-tác (069): sáng-tác, viết và tạo nên quyển sách.

Trưởng-giả (001; 063) (Trưởng = lớn; giả = người): người giàu-có, trưởng-thượng trong làng, được mọi người kính-nể.

Tu-đà-huờn (007; 022): quả-vị thứ nhứt trong hàng Thanh-văn; còn được gọi là quả Thất-Lai, nghĩa là chỉ còn tái-sanh lại ở cõi người bảy lần nữa, sẽ chứng-đắc Niết-bàn. (Pali: Sotapanna; Sanscrit: Srotapani)

Tùy-tùng (018): cùng đi theo để hầu.

Tư-duy (094): (Tư = suy nghĩ; Duy = tưởng nhớ): khởi lên ý-nghĩ trong tâm, suy-tưởng.

Tư-đà-hàm (008; 022): quả-vị thứ hai trong hàng Thanh-văn; còn được gọi là quả Nhứt-Lai, nghĩa là chỉ còn phải tái-sanh lại cõi người một lần nữa mà thôi, sẽ chứng đắc Niết-bàn. (Pali: Sakadagamin; Sanscrit: Sakrdagamin).

Từ-ái (079): (Từ = lòng Từ trong đạo Phật có nghĩa là tình thương rộng-rãi mọi chúng-sanh giống như tình thương của cha-mẹ đối với đứa con-một của mình. Ái = thương-yêu): Tâm-niệm từ-ái là trong lòng có ý-nghĩ thương-yêu rộng-rãi đến mọi chúng-sanh.

Tương-kiến (010; 011): (Tương = cùng nhau; Kiến = thấy): gặp, thấy mặt nhau.

Tương-ứng (051): (Tương= cùng nhau; Ứng = phù-hợp nhau): phù-hợp nhau, chẳng chống-đối nhau.

Tượng-vương (002) (Tượng = voi; vương= chúa): Voi chúa, voi đầu-đàn.

Tứ niệm-xứ (024): (Tứ = bốn; Niệm = nhớ-nghĩ; Xứ = nơi chốn) Tứ niệm-xứ là tên một bản Kinh rất quan-trọng trong Trung-Bộ-Kinh (Majjhima Nikaya) được Đức Phật thuyết-giảng về bốn lãnh-vực của sự quán-niệm: (1) quán về thân; (2) quán về cảm-thọ; (3) quán về tâm; quán về pháp (= sự-vật). Người thực-hành phép quán nầy sẽ đắc được định-tâm, tư-tưởng dừng trụ lại và chứng các cấp Thiền.

Tứ Thiên-Vương (008) (Tứ = bốn; Thiên = Trời; vương = vua): bốn vị Vua Trời ở cõi Dục-giới: (1) Trì-quốc thiên-vương; (2) Quảng-mục-thiên-vương; (3) Tăng-trưởng thiên-vương; (4) Đa-văn thiên-vương. 

Tứ-Thiền (005; 092) (Tứ = bốn, thứ tư; Thiền = phép tu tịnh-tâm, khiến ý-nghĩ dừng lại, tâm-trạng rỗng-rang, nhẹ-nhàng): Tu Thiền-định trải qua bốn giai-đoạn: Sơ-Thiền, Nhị-Thiền, Tam-Thiền và Tứ-Thiền. Đến cấp Tứ-Thiền, thân-tâm nhẹ-nhàng, tâm-ý dừng lại, vắng-lặng, êm-ả, an-vui.

Tự-tại (004; 007; 039): (Tự = chính mình; Tại = ở tại ); chữ Tự-tại có nghĩa là sống tùy theo ý mình, có tự-do, thong-dong, chẳng còn bị lệ-thuộc vào đâu cả. Tương-đương với chữ Tự-do.

*

U

Uế-trược (077): dơ-dáy, nhớp-nhúa.

Ưu-bà-di (082): phiên-âm chữ Phạn Upasika, có nghĩa là nữ cư-sĩ tu tại-gia, tuân theo Ngũ-Giới. Cùng nghĩa với chữ Cận-sự-nữ.

Ưu-bà-tắc (007; 011; 014): phiên-âm chữ Phạn, có nghĩa là nam cư-sĩ tu-tại-gia, tuân theo Ngũ-Giới. Cùng nghĩa với chữ Cận-sự-nam. (Pali: Upasaka).

*

V

Vi-phạm (007): (Vi = làm; phạm = lỡ làm điều trái ngược với chỗ bị cấm-đoán): Vi-phạm là lỡ làm trái với điều cấm-đoán.

Vị-lai (006; 009; 047; 083): (Vị = chưa; Lai = đến): Việc chưa xảy đến. Cùng nghĩa với chữ Tương-lai.

Vô-ngã (096): (Vô = chẳng có; Ngã = Ta; bản-ngã): chẳng có cái ''Ta'', chẳng có cái ''bản-ngã''. Theo giáo-lý nhà Phật, có ba sự-thật mà ta thường lầm-lẫn: (1) vô-thường (Pali: anicca), chịu sự biến-đổi, chẳng thường-còn; (2) khổ (Pali: dukkha), gây ra sự chẳng vừa ý, bất-toại-nguyện; (3) vô-ngã (Pali: anatta), chẳng hề có cái ''Ta'' nào trong thân-tâm con người cả. Kẻ nào cho rằng có cái bản-ngã, thân ta là của ta, kẻ đó vướng phải tà-kiến, gọi là mắc phải thân-kiến, ngã-kiến.

Vô-thường (039; 040; 042-b; 042-f): (Vô = chẳng có; Thường = thường-còn, lúc nào cũng vậy, chẳng có sự biến-đổi): Vô-thường là chẳng thường-còn, bị biến-đổi, sẽ bị tiêu-diệt. Trái nghĩa với thường-hằng. Pali: anicca; Sanscrit: Anitya.

Vô-vi (004): (Vô = chẳng có; Vi = làm): Đạo Vô-vi là đạo cầu chứng-đắc Niết-bàn, tu-tập dứt phiền-não và chẳng tạo-tác thêm điều gì gây ra nghiệp-lực để phải tái-sanh lại trong cõi Luân-hồi.

Vương-giả (014): (Vương = vua; Giả = người): Chữ vương-giả ở đây dùng như một tĩnh-từ, chỉ những gì thuộc về nhà vua; trong câu nầy, nói thái-độ vương-giả là nói đến thái-độ của nhà Vua khi bàn-luận thường hay dùng lời nói, uy-quyền của nhà Vua mà lấn-át người đối-thoại.

*

X

Xá-Vệ (001): tên kinh-thành một tiểu-quốc ở miền Bắc Ấn-độ xưa, có chùa Kỳ-viên là nơi Đức Phật trú-ngụ để hoá-độ chúng-sanh. (Pali: Savatthi, Sanscrit: Sravasti).

Xá-Kiệt (009; 011): tên một nước tưởng-tượng, do vua Di-Lan cai-trị. (Pali: Sàgalà).

Xuất-gia (005): (Xuất = ra khỏi; gia = nhà): rời gia-đình đi tu.

*

Y

Ý-niệm (042-f; 051; 096): (Ý = ý-nghĩ, tư-tưởng; Niệm = nhớ nghĩ): tư-tưởng trong tâm.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10248)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12231)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28680)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12897)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17275)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52688)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21200)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19085)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12303)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13204)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14268)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16708)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17400)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13012)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12427)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11469)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18810)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12184)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14953)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13859)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11295)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17016)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14827)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20039)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13745)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11627)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14925)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12883)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14470)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13076)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18236)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11856)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15711)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12788)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18781)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18257)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant