Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vạn Pháp Qui Tâm Lục

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 26455)
Vạn Pháp Qui Tâm Lục

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 

Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

MỤC LỤC
Lời người dịch
Lời giới thiệu của cư sĩ Thể Như
Lời nói đầu của tác giả
CHƯƠNG I Cảnh Tỉnh Tục Mê
CHƯƠNG II Phật Nho Luận Lý
CHƯƠNG III Thích, Đạo Biện Luận
CHƯƠNG IV Đốn Ngộ Tu Chứng
CHƯƠNG V Giáo Thừa Sai Biệt
CHƯƠNG VI Duy Tâm Tịnh Độ
CHƯƠNG VII Năm Tông Phái Thiền
CHƯƠNG VIII Mười Loại Ma Sự
CHƯƠNG IX Dẫn Chứng Lời Kinh
CHƯƠNG X Khuyên In Bố Thí
Lời bạt của Cư Sĩ Thể Như
Lời sau sách của Đổng Hư Tử
Phụ lục:
1- Vô tâm luận của Tổ Bồ Đề Đạt Ma
2- Bồ Đề Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn
3-Luận Đại Thừa Khai Tâm Hiển Tánh Đốn Ngộ Chơn Tông của Thiền Sư Đại Chiếu

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC

Cuốn VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC này do Thiền Sư Tổ Nguyên người Trung Quốc trước tác vào đời vua Khang Hi năm thứ 15 (1676 T.L) nhà Thanh.

Ngài Tổ Nguyên là một vị thiền sư đắc đạo nổi tiếng của Trung Quốc thời bấy giờ. Ngài nối pháp dòng Lâm Tế đời thứ 33, là đệ tử của Thượng Lam Thiên Phong Hòa ThượngGiang Tây, ngài trụ núi Tiểu Dương ở Yên Kinh, thủ đô nhà Thanh, ngày nay thuộc Bắc Bình.

Quyển Lục này chẳng những là một tài liệu vô giá cho những vị đang nghiên cứu và tu theo Thiền Tông, mà lại còn là tài liệu qúi cho những vị đang tu theo đạo Tiên, đạo Nho, tất cả đều được ngài Tổ Nguyên phân tích một cách rõ ràng về chỗ sổ trường và sở đoản của mỗi nhà, và đưa ra một phương pháp dẫn đạo rất thích đáng.

Chúng tôi dịch quyển Lục này với chủ đích: thứ nhất là làm tài liệu tu học cho Tu viện; thứ hai là giúp tài liệu cho những vị đang nghiên cứu và tu theo Thiền Tông; thứ ba là để minh định đường lối tu tập của Tu Viện Chơn Không.

Hiện tại khi nói đến tu thiền, người ta thường nghĩ đến hoặc là tu theo thiền Minh Sát của Nguyên thủy, hoặc là tu theo những phương pháp của ngoại đạo như YOGA, như phương pháp “Chuyển pháp luân” (cho tư tưởng chạy vòng theo châu thân), phương pháp Thai Tức của Tiên gia (luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần...)... Họ đinh ninh Thiền Tông đã chết ở Việt Nam và nhường chỗ cho Tịnh Độ Tôngngoại đạo. Quyển Lục này và những quyển sách do Tu Viện Chơn Không xuất bản là để trả lời rằng Thiền Tông vẫn còn sống ở Việt Namhiện có người đang tu.

Quyển Lục này chúng tôi dịch theo bản của thầy Tỳ kheo Thừa giớiĐịnh Huệ khắc bảng in vào năm Quang Tự thứ 34 (1908 T.L). Chúng tôi có lượng bớt lời tựa của Tiến sĩ Kim Hoằng, tiến sĩ Trịnh Tế Thái cả hai đều giữ chức vụ quan trọng trong Hàn Lâm Viện triều Khang Hi, ông Kỳ Huân Mộc làm chức cao Mật Nhiệm ở bộ Hồng Chương, lời bạt của nhóm người tái bản, lời bạt của ông Thông Tế Tổ Quán. Theo lời tựa của tác giả có nói đến phần phụ lục gồm mười hai bài kệ tuyệt cú tựa là “Độn Thế Sơn Cư”, nhưng ở bản này chúng tôi không thấy.

Chúng tôi dịch quyển lục này là do sự khuyến khích của bổn sư chúng tôiThượng Tọa Thích Thanh Từ, và sau khi dịch xong chúng tôi có trình cho người giảo chính lại. Tuy thế, nhưng chắc thế nào cũng có điều sơ sót, xin độc giả lượng thứ cho.

Tu Viện Chơn Không Trung Thu năm Quý Sửu (1973)
Tỳ kheo THÍCH ĐẮC PHÁP

LỜI GIỚI THIỆU

Tâm là thể của muôn pháp, muôn pháp là dụng của tâm. Pháp chẳng lìa tâm, ngay sóng là nước. Thể hay phát dụng, như nước động thành sóng. Thế nên biết, tất cả pháp là tâm vậy.

Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú. Nhiễm tịnh tuy sai khác, nhưng tóm lạibóng dáng của tâm. Nếu ngộ chơn tâm vốn không (rỗng), muôn pháp tự nhiên tiêu mất.

Nay thiền sư Tổ Nguyên ở núi Tiểu Dương, là cháu trong đạo của Đổn Thôn Phù Thạch Lão Nhơn, là đệ tử của Thượng Lam Thiên Phong Hòa ThượngGiang Tây. Ngài nghiên cứu thông suốt giáo điển, thâm đạt Thiền Tông, liễu đệ nhất nghĩa chứng tối thượng thừa, biện tài vô ngại, thật là cây phướn pháp vậy. Thiền sư vì lòng thương muốn dẫn dụ người hậu học, nên trao quyển “Qui Tâm Lục” để chỉ thẳng cái diệu nguyên. Trong lục này, thật tế là mỗi lời đều kiến tánh, mỗi câu đều minh tâm, có thể hay rửa sạch tà chấp, quét trừ dị kiến, chứng thẳng Bồ Đề, thoắt thành Phật đạo. Thật là thuyền từ nơi biển khổ, người dẫn đường nơi lối rẽ.

Tôi nhờ khánh hạnh đời trước mà gặp được sách này, liền dứt hết hồ nghi, thấu rõ tâm địa. Tôi tài năng quá vụng về, tri kiến lại cạn cợt, không đủ để phát minh lẽ thâm áo. Nên lược viết lời tựa để tỏ lòng biết ơn thầy.

Ngày rằm tháng riêng, năm Đinh Tỵ, đời vua Khang Hi.
Cổ Yến Thể Như Cư Sĩ Lưu Phương Mộc

Kính đề

LỜI NÓI ĐẦU

 Trước không kiếp, trước Phật Oai âm dương, Phật và chúng sanh đều không có tên gọi, nhưng mỗi mỗi đều có đủ một Viên Minh Cảnh.

Chúng sanh vô cớ, từ trong tịnh bạch sáng suốt, biến sanh thế giới chúng sanh nghiệp quả, sanh tử, tử sanh nối không dừng, mê chìm trong ba cõi, mò mẫm trong chín loài, từ ấy đến nay mê mờ không một ngày ngộ. Nếu chẳng chặt đứt dòng lưu lãngtrở về nguồn, thì lúc nào mới có thể giải thoát?

Phải ngộ muôn pháp trở về nhất tâm, là chuyển thế trí để thành Phật trí. Có thể gọi là gom trăm dòng làm một tánh ướt, nhồi bụi bặm lại làm một khối, nấu chảy vòng xuyến làm một chất vàng. Biến tô lạc làm thành một vị. Pháp nhất tâm này lý sự đều tròn đủ. Mười phương chư phật, tất cả chúng sanh đều đồng tâm này, không thiếu mà cũng không thừa. Chư phật đã giác ngộ, chúng sanh chẳng nên biết, nên có tên phàm thánh mê ngộ.

Tôi chẳng chịu rũ tay đứng nhìn, nên chỉ ra một con đường chánh trở về tâm. Người xưa nói: “Trên đỉnh núi Diệu Cao từ xưa đến nay chẳng cho bàn bạc, đầu non thứ hai chư Tổ tóm lược dung hoà nói cho hiểu ”. Cho nên tôi mượn văn vấn đáp để nói mười điều danh tướng hầu chứng minh nhứt tâm, và cũng để bố thí cho tất cả hàm linh.

Mười điều danh tướng gồm có: một là cảnh tỉnh kẻ thế tục, để bỏ ác về thiện. Hai là cùng nhà Nho nghị luận để quét trừ sự bài báng khác lạ. Ba là cùng Đạo gia biện biệt chổn tà nguỵ, để chẳng hướng ngoài tìm cầu. Bốn là Đốn ngộ tu chứng, vượt thẳng cảnh Phật. Năm là nói sự sai biệt của Giáo và Thừa; nhỏ nhiệm chỉ bày nhất tâm. Sáu là “Duy tâm tịnh độ”, để nói Phật chẳng từ ngoài lại. Bảy là thiền phân năm tông mà lý không hai. Tám là mười loại ma sự làm loạn chánh định, để dự phòngnuôi dưỡng đạo nghiệp. Chín là dẫn chứng lời kinh, hầu đoạn trừ nghi ngờ, và nương vào đó mà sanh lòng tin. Mười là khuyên nên in mà bố thí, hầu báo đáp ân Phật.

Tôi thừa hưởng căn lành rất ít, chợt thấy được một góc chỗ chí đạo, cho nên trình bày cái thấy hẹp hòi của tôi. Xin các bậc cao minh phủ chính cho, thật tôi chẳng phải ức kiến mà chỉ thuận theo Phật thừa. Nếu như có người học đời sau, xem quyển lục này có sai, tôi xin tha thiết sám hối những lỗi lầm về pháp của tôi. Nếu hợp với thành tâm, trên y lời dạy mà vâng làm, ngày kia sẽ đồng đến hội Long Hoa thọ ký thành Phật có phần.

Ngày Phật thành đạo, tháng 12, đời vua Khang Hi năm thứ 15, nhà Đại Thanh (T.L 1676)

Tổ Nguyên Siêu Minh Thiền Sư
 
 

WP: Hoàng Ngọc Anh
Source: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
16 Tháng Mười Hai 201414:48
Khách
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát . Công Đức Vô Lượng ! Công Đức Vô Lượng ! Chân thành cám ơn Bậc Đại Tri Thức đã bỏ công dịch thuật, và các bậc Đại Hộ Pháp (chư vị Đồng Đạo) đã bỏ công sức và thời gian lưu truyền lời Khai Thị của Chư vị Tổ Sư .
Nguyện cầu Chánh Pháp mãi mài trường tồn .
Nguyện cầu các bậc Thiện Tri Thức trụ thế dài lâu để trang nghiêm đạo tràng và giáo hóa chúng sinh sâu rộng .
Nguyện tất cả luôn tinh tấn tu hành, nhất thời đồng chứng đắc quả vị Phật .
Con xin y giáo phụng hành ! Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật . Nam Mô A Di Đà Phật .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11607)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11090)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12049)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12545)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10742)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17963)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11715)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9931)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10158)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15322)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11222)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14311)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12071)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15305)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11984)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12386)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12063)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12541)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13141)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14771)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12637)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16524)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19621)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13093)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12641)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12229)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11817)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10877)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13470)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11923)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11826)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11618)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14492)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15645)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13593)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12873)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9846)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11143)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9052)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12154)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13028)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10282)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12172)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15283)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16576)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11446)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14245)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19655)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14135)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24564)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10664)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant