Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương V: Giáo Thừa Sai Biệt

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9818)
Chương V: Giáo Thừa Sai Biệt

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

CHƯƠNG V
GIÁO THỪA SAI BIỆT

HỎI: Ở trên ngài đã khai thị một cách rộng rãi về pháp môn Đốn ngộ, kẻ học muộn nầy thấy đã quá rõ ràng. Nhưng còn vài điểm sai biệt trong giáo lý xin ngài nhỏ nhặt khai thị trở lại cho.

ĐÁP: Ông cứ hỏi, ta sẽ đáp, ta chẳng phụ lòng ông đâu.

HỎI: Thế nào là “muôn pháp về tâm” (vạn pháp qui tâm)?

ĐÁP: Như vàng tuỳ người thợ làm ra nhiều món đồ. Những món đồ ấy cho vào lò nấu chảy ra chỉ có một thể. Muôn pháp về tâm cũng như vậy.

HỎI: Pháp môn đốn ngộ có sức thù thắng gì?

ĐÁP: Chánh giải viên tu, sức nó vượt qua kiếp số, tuy ở trong sanh tử mà thường vào niết bàn, thường ở trong trần lao mà hằng ở trong Tịnh độ. Đầy đủ mắt thịtmở mắt huệ. Đổi tâm phàm mà đồng với tâm Phật. Tin biết pháp môn đốn ngộ công đức lớn lao hơn cả.

HỎI: Minh tâm kiến tánh, như người uống nước lạnh nóng tự biết. Lời nói hay không có chỗ y cứ?

ĐÁP: Người học dụng tâm thân thiết, tham cứu lẽ chơn thật, chợt được thân tâm nhứt như, ánh sáng trí tuệ thoát phát khởi, thấy sự từ hoại kiếp trở về trước để thân đến chỗ bản giác. (Đến chỗ nầy) có miệng khó nói, có viết khó thuật. Như người uống nước lạnh nóng tự biết. Muốn mở phương tiện để hiển bày bổn tâm, phải mượn giáo thừa để làm thí dụ.

HỎI: Thiền tông dạy người chẳng xem kinh, nếu gom được chút hiểu biết nào, tự thành kẻ tri thức văn tự phải chăng?

ĐÁP: Muốn nghiêncứu giáo thừa phải tìm tòi trong bảo tạng, mỗi mỗi phải tiêu hoá trở về tự kỷ, lời lời phải thầm hợp bản tâm, chỉ sợ e chấp văn sanh hiểu, không chịu qui hội về bản thể, cho nên cười chê xem kinh để thành thánh nhơn văn tự.

HỎI: Thế nào là mê, thế nào là ngộ?

ĐÁP: Nhơn bản giác chơn tâm khởi ra bất giác gọi là mê. Nhơn bất giác thành thỉ giác, rồi trở về chơn tâm gọi là ngộ. Cho nên nói: “Nhơn đất mà té, thì cũng nhơn đất mà dậy”. Mê ngộ tuy khác mà chơn tâm không hai.

HỎI: Tại sao người khế lý, đối với chôn vọng phải dứt cả hai?

ĐÁP: Nhơn vọng mà nói chơn, chơn không có tự tướng. Từ chơn khởi vọng, nên vọng thể vốn không. Vọng đã vốn không, chơn cũng chẳng thành lập. Chơn vọng đều dứt cả hai thì bản tâm thường trụ.

HỎI: Tông môn đốn ngộ “đơn đao trực nhập”, nào dùng ngôn ngữ bàn luận rộng rãi sai khác?

ĐÁP: Kẻ sĩ tham cứu lẽ huyền phải có đủ hai mắt: một là kỷ nhãn để sáng tỏ thiền; hai là trí nhãn để phân biệt được hoặc nghiệp. Thiền Tông nói: “Chỉ sáng tỏ được tự kỷ mà chẳng rõ được việc trước mắt, người như thế chỉ có một mắt, lý đơn sự chiết, rốt lại chẳng viên thông”. Nếu cho trí huệ là quấy thì Đại trí Văn Thù chẳng xưng là con đấng Pháp Vương? Nếu cho dứt học là phải, thì Vô Văn tỳ kheo chẳng làm người ở địa ngục. Tất cả đều do cửa ải ý thức bị khoá, nếu không có chìa khoá trí huệ thì khó mà mở. Tự cho rằng “tình tưởng câu khiên”, nếu chẳng có gươm trí huệ thì khó dứt. Người tiến tu viên thông, chớ có cái chấp bặt lời (không học).

HỎI: Bậc viên đốn tu chứng trở lại rơi vào nhơn quả chăng?

ĐÁP: Trên đến chư Phật, dưới đến chúng sanh đều thu vào nhơn quả. Vậy có thể bác không nhơn quả sao? Chỉ do ngoại đạo chẳng đạt lý duyên sanh, duy chấp tự nhiên, bác không nhơn quả. Hàng nhị thừa chột mắt chỉ chứng thiên không (nghiêng về không), trí diệt thân tàn xa lìa nhơn quả. Kẻ phàm phu bị nghiệp trói tham đắm năm dục, nên nhà cửa đốt thân, chấp trước nhơn quả. Tất cả đều thành cuồng giải, tự mê muội lý viên thường. Chỉ lấy thật tướng làm nhơn, thật tướng làm quả, chớ tạo cái chấp bác không (nhơn quả) mà rơi vào đường tà. (Được như vậy mới) chóng thành viên nhơn, chóng chứng diệu quả.

HỎI: Ở đời có những kẻ sĩ khế lý, xưng là Đạo nhơn vô tâm. Nếu là vô tâm thì đồng như cây đá, do đâu mà các bậc thánh hiềntrí huệ lớn?

ĐÁP: Đạo nhơn vô tâm chẳng đồng với cây đá, vô tâmkhông tâm phân biệt, không tâm yêu ghét, không thủ xả, không tâm thiện ác, không tâm có không, không tâm ở giữa hay một bên, không tâm trong ngoài, không tâm chấp trước, chớ chẳng phải không chơn tâm linh tri tịch chiếu.

HỎI: Người xưa nói: “Chớ bảo vô tâm ấy là Đạo vô tâm còn cách một lớp cửa”. Vậy thế nào?

ĐÁP: Chơn tâm hư huyễn chẳng có chẳng không. Nếu bỏ có (hữu) trụ không (vô), trở thành lỗi lớn. Cổ Đức có kệ rằng:

Khuyến quân học đạo chớ tham cầu
Vạn sự vô tâm đáo hợp đầu
Vô tâm thỉ thể vô tâm đạo
Thể đắc vô tâm vô dã hưu.

DỊCH:

Khuyên anh học đạo chớ tham cầu
Muôn sự không tâm đến hợp đầu
Không tâm thể nhập không tâm đạo
Nhập được không tâm không cũng thôi.

HỎI: Thế nào gọi là không biết mà biết, biết mà không biết?

ĐÁP: không biết (vô trí) là thể của tâm. Biết là dụng của tâm. Thể hay phát ra diệu dụng: không biết mà biết. Dụng chẳng lìa thể: biết mà không biết. Dụng nếu lìa thể là cái biết trụ tướng. Thể nếu không dụng gọi là ngoan không.

HỎI: Thế nào gọi là không biết mà biết, biết mà không biết?

ĐÁP: Không biết (vô trí) là thể của tâm. Biết là dụng của tâm. Thể hay phát ra diệu dụng: không biết mà biết. Dụng chẳng lìa thể: biết mà không biết. Dụng nếu lìa thể là cái biết trụ tướng. Thể nếu không dụng gọi là ngoan không.

HỎI: Thế nào là có niệm mà biết là vọng?

ĐÁP: Sáu căn đối cảnh động niệm phân biệt: có niệm mà biết, nên cho là vọng.

HỎI: Thế nào vô tâm mà biết là chơn?

ĐÁP: Chơn tâm ứng vật như gương soi hình tượng, vô tâm mà biết nên gọi là nhơn.

HỎI: Thế nào là chánh tri kiến?

ĐÁP: Chẳng nương căn trần mà có tri kiến là chánh. Nương gá căn trần mà khởi tri kiến là tà.

HỎI: Thế nào là tam bảo?

ĐÁP: Nhứt tâm không tịchPhật Bảo. Tịch mà thường chiếu soi là Pháp Bảo. Chiếu soi mà không nhiễm là Tăng Bảo.

HỎI: Thế nào là cúng Phật một cách chơn chính?

ĐÁP: Sáu căn đối cảnh sáu thức chẳng sanh, chơn tâm độc chiếu là nghe pháp chơn chính.

HỎI: Thế nào là xuất gia chơn chính?

ĐÁP: Chẳng trụ ngôi nhà ngũ uẩn, ấy gọi là người xuất gia chơn chánh.

HỎI: Thế nào có thể chẳng trụ năm uẩn?

ĐÁP: Thấy cái nương vào căn thì sắc uẩn không (rỗng). Đối cảnh vô tâm thì thọ uẩn không. Biết mà không biết thì tưởng uẩn không. Tâm tâm không nhiễm thì hành uẩn không. Chơn tâm thường trụ thí thức uẩn không.

HỎI: Thế nào là “không tức sắc, sắc tức không”?

ĐÁP: Thấy không rồi trụ không là “không tức sắc”. Thấy sắc chẳng trụ sắc là “sắc tức không”

HỎI: Thế nào là “tức Tâm tức Phật”?

ĐÁP: Tâm và Phật không hai chớ hướng bên ngoài mà tìm cầu.

HỎI: Thế nào là “phi tâm phi Phật”?

ĐÁP: Phá cố chấp, trừ hiểu biết, tâm và Phật vốn không.

HỎI: Thế nào là “ba tâm không thể được”?

ĐÁP: Quá khứ, vị lai, hiện tại, ba tâm xưa nay vốn không tịch. Bỗng vọng khởi ra hoa đốm giữa hư không, làm che khuất cái viên minh chơn thật.

HỎI: Thế nào gọi là chơn không?

ĐÁP: Chơn tâm thể tịch, máy mầu khởi dụng chiếu soi. Tịch và chiếu không hai gọi đó là chơn không.

HỎI: Thế nào gọi là diệu hữu?

ĐÁP: Đồng chiếu soi lẽ hữu vô, phân biệt rõ ràng, nhưng chẳng rơi vào năng sở, gọi là diệu hữu.

HỎI: Thế nào nói rằng “chỉ được gốc chớ lo ngọn”?

ĐÁP: Nếu ngộ được chôn tâm vốn không, thì muôn pháp tự nhiên tiêu mất.

HỎI: Thế nào gọi “Phiền não tức bồ đề”? Vô minh tức Phật tánh?

ĐÁP: Niệm trước sanh tức là phiền não, niệm sau chẳng trụ tức là bồ đề. Niệm trước động tức vô minh, niệm sau chẳng tiếp tục tức Phật tánh.

HỎI: Thế nào là “thường chẳng lui”?

ĐÁP: Người ngộ bản tâm gồm cả giới, tu, chứng một đời có thể xong, vĩnh viễn không lui rớt. Kẻ nương văn giải nghĩa, tập khí nặng, tâm trôi nổi không gồm tu quángiữ giới, khi gặp duyên tự lui sụt.

HỎI: Thế nào gọi là Lục độ?

ĐÁP: Đốn ngộ chơn tâm là đầy đủ lục độ.

HỎI: Thế nào ngộ chơn tâm đầy đủ lục độ?

ĐÁP: Nếu ngộ chơn tâm hành lục độcăn bản, còn mê chơn tâm hành sáu độ như mù. Cớ sao chơn tâm bảo là căn bản? – Chẳng ngộ chơn tâm mà hành bố thí thì một đời được vinh hiển, sau sẽ chịu họa tai. Chẳng ngộ chơn tâmtrì giới, thì sanh lên cõi trời dục giới, hết phước trở lại rơi vào ngục nê tê. Chẳng ngộ chơn tâm mà hành nhẫn nhục, thì được quả báo đoan chánh, nhưng chẳng chứng tịch diệt. Chẳng ngộ chơn tâmtinh tấn, thì luống tăng thêm sự sanh diệt, công phu chẳng đến được lẽ chơn. Chẳng ngộ chơn tâmthiền định, chỉ đi trong cõi trời sắc giới, chớ chẳng về được pháp giới. Chẳng ngộ chơn tâm mà có trí huệ, thì khéo hiểu ngữ nghĩa, tất cả đều thành hữu lậu. Ngộ chơn tâm nầy thì thành tựu được muôn đức. Mê chơn tâm nầy thì công hạnh bày ra đều rỗng.

HỎI: Thế nào là giới, định, huệ, ba môn học vô lậu?

ĐÁP: Bên ngoài chẳng tìm có, bên trong chẳng giữ không gọi là giới. Một niệm, chẳng sanh muôn duyên không lặng gọi là định. Khéo hay phân biệt chẳng sanh yêu ghét gọi là huệ. Ba môn vô lậu nầy là sự học của đại thừa.

HỎI: Thế nào là tam học của tiểu thừa?

ĐÁP: Chỉ chấp nơi thân, đoạn tứ trụ bịnh gọi là giới. Thân hình đồng như cây khô, dứt sự hiển hiện oai nghi gọi là định. Chỉ chứng thiên không mất lý trung đạo gọi là huệ. Cho nên gọi là pháp nghèo (bần pháp), là vùi lấp định huệ. Ngài Tịnh Danh quở đó là pháp Tiểu thừa.

HỎI: Người mới phát tâm tập định từ đâu mà vào?

ĐÁP: Kẻ sơ tâm học tam muộn, “nên cột tâm vào một duyên”, tập lâu được định, chơn huệ tự nhiên phát khởi.

HỎI: Thiền có mấy loại?

ĐÁP: Thiền có năm loại.

HỎI: Năm loại thế nào?

ĐÁP: Một là người khởi kiến chấp khác, thích cõi trên chán cõi dưới mà tu, đấy gọi là thiền ngoại đạo. Hai là người chánh tín nhơn quả cũng lấy tâm hàn yểm (thích chán) mà tu, đó là thiền phàm phu. Ba là người liễu ngộsanh không, nghiêng chứng chơn đạo mà tu, đấy là thiền Tiểu thừa. Bốn là người ngộ được người và pháp đều không hằng trụ ở lý Trung mà tu, đó là thiền đại thừa. Năm là người vượt khỏi những dị kiến, các pháp bình đẳng mà chứng, đấy là thiền Như Lai.

HỎI: Thế nào gọi Như Lai?

ĐÁP: Tịch chiếu không hai gọi là như. Bi nguyện chẳng bỏ gọi là lai. Kẻ phàm phu Lai mà chẳng Như. Tiểu thừa Như mà chẳng Lai. Chỉ có Phật thừa Như mà hay Lai.

HỎI: Thế nào là ba pháp quán: Không, Giả, Trung?

ĐÁP: Phản chiếu tự tâm vốn không chỗ khởi, chỗ khởi vốn không gọi là Không quán. Từ chỗ không khởi mà vọng sanh ra các pháp, các pháp chẳng thật, gọi là giả quán. Không, Giả vốn không chẳng dừng lại hai đầu, toàn thểchơn tâm, gọi là Trung quán.

HỎI: Thể dụng của chơn tâm phân chia như thế nào?

ĐÁP: Thể của chơn tâm thì mênh mang mà không lặng. Dụng của chơn tâm thì rõ ràng giác biết. Mênh mang không lặng chẳng đồng với ngoan không, nó lặng mà thường chiếu soi. Rõ ràng giác biết chẳng phải là sự nhiễm trước của thừa, nó chiếu soi mà thường lặng (tịch), lặng và chiếu chẳng hai gọi là chơn tâm.

HỎI: Thế nào là “không nơi chốn, không chỗ nào chẳng nơi chốn” ?

ĐÁP: Chơn tâm thể nó không (rỗng), nên nói không nơi chốn. Thể không ấy biến khắp, nên không chỗ nào chẳng nơi chốn.

HỎI: Chơn tâm biến khắp không chỗ nào chẳng nơi chốn. Tại sao thân biết mà chỗ khác chẳng biết?

ĐÁP: Chơn tâm thể nó rỗng, pháp giới nhứt như, tùy duyên mà khởi hiện, chỗ ứng hợp mới biết.

HỎI: Thế nào bốn đảo của phàm phu?

ĐÁP: Đảo thứ nhất thân chẳng tịnh mà tưởng là tịnh. Đảo thứ hai thọ vốn là khổ mà tưởng là vui. Đảo thứ ba, vọng tâm không thường mà tưởng là thường. Đảo thứ tư, vốn trong vô ngã mà tưởng là ngã. Bốn cái tưởng lộn ngược nầy là phàm phu chấp có.

HỎI: Thế nào là bốn đảo của nhị thừa?

ĐÁP: Thứ nhứt, thân không (rỗng) vốn tịnh mà khởi tưởng rằng chẳng tịnh. Thứ hai, thọ vốn là chỗ không mà khởi tưởng rằng khổ. Thứ ba, tâm vốn chơn thường mà khởi tưởng là vô thường. Thứ tư, vô ngã tức chơn ngã mà khởi tưỡng là vô ngã. Bốn cái tưởng lộn ngược nầy, hàng nhị thừa rơi vào không.

HỎI: Thế nào lìa tám cái đảo được thường lạc ngã tịnh?

ĐÁP: Tất cả chúng sanh ở trong sanh tử vọng khởi chấp trước bốn đảo thường lạc ngã tịnh. Hàng nhị thừa ở trong niết bàn vọng cầu giải thoát đoạn bốn đảo. Chư Phật Như Lai xa lìa tám cái đảo, được thường lạc ngã tịnh, chứng bốn ba la mật.

HỎI: Chơn tâm vô phân biệt, nếu là vô phân biệt như đi trong đêm đen, mờ tối chẳng biết?

ĐÁP: Phàm luận về phân biệt có ba loại: một là căn thức mới sanh tùy niệm phân biệt; hai là ý thức liễu biệt kế độ phân biệt; ba là chơn tâm ứng vật, như gương chiếu hình tượng, sáng suốt rõ ràng, giống như có phân biệt.

HỎI: Thầy đã giải bày có ba loại phân biệt. Cái nào là chơn cái nào là vọng?

ĐÁP: Căn thức, ý thức phân biệt đều là vọng. Chơn tâm ứng vật rõ ràng thường biết, tuy giống như phân biệt mà thật thì vô phân biệt.

HỎI: Thân Phật vô hình, dụ như hư không, do đâu lại có tướng sáu căn?

ĐÁP: Ngay nơi tướng để sáng tỏ cái chơm, nào trái với đại dụng? Thắng nghiệp lợi tha chẳng dứt cửa giáo hóa nầy. Cổ Đức có kệ rằng: “Hư không không tướng, mà hiện các tướng, Pháp thân cũng vậy, đầy đủ sáu căn tướng”.

HỎI: Thế nào là chơn giải thoát?

ĐÁP: Sáu căn chiếu cảnh không bị cảnh trói buộc, tất cả chẳng trụ gọi là chơn giải thoát.

HỎI: Thế nào là hàng ma?

ĐÁP: Từ bi nhẫn nhục với kẻ dưới là hàng thế ma. Nhứt tâm không hai là phục tâm ma. Chẳng dùng diệu thuật linh phương mà bầy ma trong, ma ngoài tự lui.

HỎI: Thế nào là Tam như lai tạng?

ĐÁP: Chơn tâm tròn sáng thể nó không tịch gọi là không như lai tạng. Không tạng hay phát khởi hằng sa diệu dụng, gọi là bất không như lai tạng. Thể hay phát dụng, dụng chẳng lìa thể gọi là “không bất không như lai tạng”.

HỎI: Thế nào là tám thức?

ĐÁP: Tám thức là nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạt naa lại da thức.

HỎI: Xin thầy phân rõ khả năng và tướng dụng của tám thức.

ĐÁP: Thức thứ tám gõi là tâm, gom nhóm những hạt giống của các pháp, rồi nương vào hạt giống ấy làm nhơn sanh ra các pháp. Thức thứ bảy gọi là ý. Ý duyên tàng thức và các thức khác, hằng suy xét nghĩ lường làm ngã. Ngoài ra sáu thức kia gọi là thức. Sáu thức kia phân biệt cảnh thô và động, có gián đoạn, phân biệt rõ ràng và chuyển.

HỎI: Trong kinh Lăng Già, nói rõ về ba loại thức là chơn thức, hiện thứcphân biệt sự thức. Ba loại thức nầy thế nào xin phân rõ?

ĐÁP: Chơn thức là thức thứ chín, còn có tên khác là bạch tịnh thức. Thức thứ tám là tàng thức, hay hiện ra các pháp (gọi là hiện thức). Ngoài ra bảy thức kia đều gọi là phân biệt sự thức. Tuy rằng thức thứ bảy chẳng duyên cảnh trần bên ngoài mà hay duyên thức thứ tám, nên còn chỗ phân biệt.

HỎI: Thế nào chuyển tám thức thành bốn trí?

ĐÁP: Chuyển năm thức đầu làm thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu làm diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy làm bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám làm đại viên cảnh trí.

HỎI: Thế nào là đại viên cảnh trí?

ĐÁP: Chơn tâm không tịch như gương thường sáng.

HỎI: Thế nào là bình đẳng tánh trí?

ĐÁP: Hay đối với các pháp mà chẳng sanh phân biệt.

HỎI: Thế nào là diệu quan sát trí?

ĐÁP: Hay vào các căn phân biệt mà chẳng nhiễm.

HỎI: Thế nào là thành sở tác trí?

ĐÁP: Năm căn đối cảnh, chính lúc ấy cảm giác khó lạc chẳng xâm nhập.

HỎI: Thế nào là gom bốn trí thành ba thân?

ĐÁP: Thành sở tác trídiệu quan sát trí gom về hóa thân. Bình đẳng tánh trí gom về báo thân. Đại viên cảnh trí gom về pháp thân.

HỎI: Thế nào là pháp thân?

ĐÁP: Một niệm chẳng sanh, muôn duyên đều không tịch.

HỎI: Thế nào là báo thân?

ĐÁP: Khéo đối với các pháp, tất cả đều bình đẳng.

HỎI: Thế nào là hóa thân?

ĐÁP: Thành tựu được sức bản nguyện, mới ứng ra làm các việc.

HỎI: Kinh Viên Giác nói: “Đại viên cảnh là già lam của ta, thân và tâm đều cư ngụ nơi bình đẳng tánh trí. Do đâu (kinh Viên giác) không chỉ bày thành sở tác trídiệu quan sát trí”?

ĐÁP: Đại viên cảnh trílặng lẽ mà chiếu soi (tịch chiếu). Bình đẳng tánh trí là chiếu soi mà lặng lẽ. Diệu quan và thành sở chỉ cho pháp thân khi hành động trong mê. Dùng diệu quan sát thu mười tám giới. Tất cả trần lao chuyển làm thành sở tác rồi gom về đại viên cảnh.

Kinh Lăng Già nói: “Phật dạy Đại Huệ: một đêm ba thời, thường dùng diệu quan sát trí, khiến trừ sạch hiện lưu thức. sáu căn là thành sở tác trí, như khi bàn tay để ngửa, không nên hỏi rằng bàn tay úp chỗ nào? Cũng như khi băng tan ra thành nước, băng và nước chẳng có sự khác nhau”. Trong môn lợi tha, nương vào sức bi nguyện, dùng diệu quan và thành sở mà làm lợi khắp hàm linh. Cổ Đức nói: “Chúng sanh chẳng biết, nên chấp cái tên của tám thức. Chư Phật chứng đắc nên hay thành được cái dụng của bốn trí”.

Nếu mê muội thì thức thứ tám khởi lên cái tên là báo tàng. Thức thứ bảy được tên là nhiễm ô. Thức thứ sáu khởi lên cái tình biến kế. Tiền ngũ thức chạy theo tướng của căn trần. Nếu ngộ nó thì A-lại-da thành cái thể của viên cảnh, là cái cửa giữ gìn công đức. Mạt na là nguổn gốc của bình diệu đẳng, tánh tự tha chỉ có một. Thức thứ sáu là cái diệu của sự quan sát, hay chuyển vành xe chánh pháp. Tiền ngũ thức là hưng khởi công đức đã làm, rủ theo dấu vết của ứng thânhóa thân. Nhứt tâm chẳng động, thức trí tự phân, chẳng đổi cái thể của tám thức mà chỉ đổi cái tên của tám thức mà thôi.

HỎI: Người ngộ lý chuyển thức thành trí, kẻ còn trong mê theo thức mà lên xuống. chưa biết tám thức có lớn nhỏ chăng?

ĐÁP: Thức tâm vi diệu, không thể nghĩ bàn, theo nghiệp thọ thân lớn nhỏ chẳng đồng. Kinh Hiển Thức nói: “Phật bảo Đại Lạc! Như gió không hình không chất, dừng ở trong hang tối, hoặc trong lỗ hở, gió xuất hiện rất dữ tợn, hoặc làm ngã núi Tu di nát thành bụi nhỏ. Gió vi diệu không hình không chất, thức cũng như vậy”.

HỎI: Lấy gì làm nhơn chìm đắm trong bốn loài sanh sản (tứ sanh)?

ĐÁP: Tinh là nhơn của sự sanh sản bằng thai (thai sanh). Tưởng là nhơn của sự sanh sản bằng trứng (noãn sanh). Tình và tưởng hợp lại làm nhơn sanh sản từ nơi ẩm ướt (thấp sanh). Tình và tưỡng lìa là nhơn của hóa sanh. Tất cả sự sanh sản ở trên đều do ý thức tạo nghiệp, rồi tùy nghiệp mà có sự thăng trầm. nếu ý thức đốn không (rỗng suốt một cách mau chóng), thì sự luân hồi vĩnh viễn dứt.

HỎI: Thế nào là ngũ nhãn?

ĐÁP: Bên ngoài chẳng trụ có là nhục nhãn. Bên trong chẳng trụ không là thiện nhãn. Không và có đều dứt là pháp nhãn. Chiếu soi cả hai (không hữu) mà không nhiễm là huệ nhãn. Lìa tất cả tướng là Phật nhãn.

HỎI: Thế nào là lục thông?

ĐÁP: Sáu căn đối cảnh tới lui không chướng ngạilục thông.

HỎI: Thế nào là Đẳng giác, và thế nào Diệu giác?

ĐÁP: Đẳng giác là tịch và chiếu không hai, các pháp bình đẳng. diệu giác là tịch và chiếu dứt cả hai, thể chơn thường tỏa sáng một mình.

HỎI: Thế nào là biến dịch sanh tử, và thế nào là phần đoạn sanh tử?

ĐÁP: Biến dịch sanh tử là khi bồ tát thành tựu bi nguyện, làm lợi ích cho loài hữu tình. Tuy ở trong sanh tử mà không đồng với phàm phu còn nghiệp hữu lậu thấm nhuần. Phần đoạn sanh tử là do vọng tâm của phàm phu tạo ra, niệm niệm đều do đam mê chấp trước, lại thêm phiền não chướng, nên cuốn vào vành xe khổ lớn không lúc dừng nghỉ.

HỎI: Thế nào là “Đều sào trăm trượng phải tiến bước, mười phương thế giới lộ toàn thân”?

ĐÁP: Tâm như lai tạng, vốn từ một tinh minh mà theo trần trôi chảy, phân là sáu công dụng rồi chuyển xoay theo vật, trôi nổi trong sanh tử. Nếu như biết quay về căn trần không giao nhau, trở lại dòng toàn có một. Sáu công dụng chẳng hiện hành thì trạm nhiên thuần tịnh như gương thường sáng. Nếu giữ tâm nầy có thể gọi là rơi từ trên đảnh (đảnh đọa), lại có tên là Hầm sâu giải thoát (giải thoát thâm khanh). Đây là cái tri kiến nghiêng về không. Lại phải tiến bước, thì mười phương thế giới mới lộ toàn thân. Đập nát chiếc gương đi, sơn hà đại đại toàn bày pháp thể.

HỎI: Thế nào “Chẳng trụ vô vi, không tận hữu vi”?

ĐÁP:Tuy chứng pháp thân mà chẳng giữ thật tế (chỗ chơn thật), bi nguyện tiếp vật nên tùy loài lợi sanh. Tào Sơn nói: “Chớ đi đường tâm ấy, chẳng mặc áo bản lai, phải thế nào mới đúng? – Tối kỵ lúc chưa sanh” (mạc hành tâm lộ xứ, bất quải bản lai y, hà tu chánh nhậm ma? – Thiết kỵ vi sanh thời). Hàng Đại thừa bồ tát làm lợi ích và dẫn dắt chúng sanh, chẳng dừng ở vô viphương tiện mặc áo nhơ (cấu y), chẳng dứt hữu vi mà đi trong phi đạo, để tùy loài đồng sự, độ thoát cho các loài hữu tình, nên chỉ bày cái nhiễm, tu cái tịnh, thông đạt đến Phật đạo.

HỎI: Thế nào là sám hối chơn thật?

ĐÁP: Người đời tạo đủ bốn tội trọng, mười điều ác, nghiệp nhơn đã cùng cực sẽ đọa vào tam đồ. Chợt sanh lòng hổ thẹn, phát đại dũng mãnh, gần bậc thiện tri thức, đốn ngộ bản tâm, những ác nghiệp từ bao kiếp trưcớ, và những tội lỗi hiện đời, như nước sôi làm chảy tuyết, như lửa cháy củi khô. Nghiệp hết phúc sanh, trí huệ phát hiện, trở lại đem những sở đắc của mình mà chỉ thẳng cho người sau, được đốn ngộ tâm tánh để cùng thành Chánh giác, gặt hái được phúc vô lượng, công đức còn hơn cát sông Hằng.








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11347)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12066)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12096)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10616)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13173)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12686)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16578)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19666)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11951)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11843)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18017)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12175)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11482)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant