Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương IX: Dẫn Chứng Lời Kinh

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10868)
Chương IX: Dẫn Chứng Lời Kinh

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

CHƯƠNG IX
DẪN CHỨNG LỜI KINH

Muôn pháp về tâm hỏi đáp rõ ràng. Bậc thượng căn vừa xem qua liền ngộ bản tâm, kẻ trung hạ căn ngu độn nghi ngờ bài báng chẳng tin, nên dẫn lời kinh của Phật để chứng minh hầu đaọn trừ những nghi hoặc, tin một cách thành thật chẳng lầm. Hoặc có người được ngộ, y lời dạy mà vâng làm, vào thẳng tòng lâm của Cổ phật, vượt ngang qua bờ cõi then chốt của Tổ Sư. Có thể bảo ngay nơi nhục nhãnviên thông Phật nhãn, ngay nơi tâm phàm mà hiển chơn tâm. Nay thuật lời trong kinh Phật và lời của Tổ sư để ấn chứng chánh lý qui tâm.

Kinh Bát Nhã nói: “Hết thảy chư Phật đồng ở một chỗ, gom về cảnh giới vô lậutự tánh thanh tịnh”.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lời lẽ thuyết pháp (của Như Lai), kẻ tiểu trí vọng phân biệt, nên sanh chướng ngại, chẳng rõ ở tự tâm. Không rõ tự tâm làm sao biết chánh đạo? Kẻ kia dùng tư tưởng điên đảo nên tăng trưởng tất cả điều ác”.

Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất nghĩa đế chỉ là tâm. Vô vàn tướng bên ngoài, tất cả đều không có. Kẻ phu kia chấp trước vào ác kiến, khi dối tự tha, không thấy rõ được chỗ trụ như thật của hết thảy các pháp. Đại Huệ! Hết thảy các pháp như thật, ấy nghĩa là hay liễu đạtduy tâm sở hiện”.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Người xuất gia làm sa môn, (phải) đoạn dứt ham muốn, khử trừ khát ái, biết được nguồn tâm của mình, đạt được lý gốc của Phật, ngộ pháp vô vi, bên trong không sở đắc, bên ngoài không sở cầu, tâm không hạn cuộc nơi đạo, cũng không tạo nghiệp, vô niệm vô tác, phi tu, phi chứng, phải trải qua các ngôi thứ mà tự cao tột. Đó gọi là Đạo!”

Kinh Bảo Vân nói: “Hết thảy các pháp, tâm là trên hết. Nếu biết tâm thì có thể biết được tất cả các pháp”.

Bài kệ trong Kinh Nhơn Quả nói: “Tạo tất cả thiện ác đều từ tâm tưởng sanh. Cho nên người xuất gia chơn chánh đều lấy sự minh tâm làm gốc”.

Kinh Niệm Phật Tam Muội nói: “Tâm như kim cang, với ngừoi thiệncăn hay xuyên thấu tất cả pháp. Tâm như áo Ca lân đề, với người thiện căn hay mềm dẻo. Tâm như bể cả, với người thiện căn hay nhiếp các giới tu. Tâm như đá bằng phẳng, với người thiện căn hay đứng giữ tất cả sự nghiệp. Tâm như núi chúa, với người thiện căn hay phát sanh tất cả pháp lành. Tâm như cõi đất, với người thiện căn hay gánh vácgìn giữ sự nghiệp cho chúng sanh”.

Kinh Định Ý nói: “Trong thiền định chẳng dính mắc trong ngoài, cũng không ở giữa, đó gọi là nhứt tâm”.

Kinh Bảo Khiếp nói: “Văn Thù sư lợi bảo Xá lợi Phất rằng như hoả tai cháy mạnh trong hằng sa kiếp, rốt lại cũng không đốt được hư không. Xá Lợi Phất! Cũng như vậy, mỗi mỗi chúng sanh tạo tội ngũ nghịch, cùng nghiệp chẳng lành trong hằng sa kiếp, nhưng mà tâm tánh họ rốt lại cũng chẳng thể nhơ”.

Bài kệ torng Kinh Đại hư không tạng Bồ tát sở vấn nói:

Hư không lìa sanh diệt
Pháp giới không tới lui
Các pháp nương tâm mà trụ.
Trong không, không có sắc phi sắc
Tâm tánh cũng như vậy
Hư không chỉ giả danh
Tâm ý thức cũng như vậy.

Bài kệ Kinh Lăng Già nói:

Các pháp không pháp thể
Mà nói chỉ là tâm
Chẳng thấy dược tự tâm
Mà khởi ra phân biệt.

Kinh Xuất Diệu nói: “Người thân mặc giáp giới luật, mà tâm không có gươm trí huệ, thì không làm tan hoại được bọn đầu sỏ kiết sử. Cho nên biết, nếu chẳng quán tâm cho diệu huệ thành tựu, thì không thể chặt đứt được căn bản vô minh”.

Kinh Niết Bàn nói: “Sư tử rống ấy là nói một cách quyết định rằng tất cả chúng sanh dều có Phật tánh. Nếu biết tự tâm mình Phật tánh đầy đủ, thì ngoài tánh lại có pháp đáng cầu ư?”.

Kinh Pháp Hoa Tam Muội nói: “Không dính mắc, không chỗ nương, không hệ luỵ vào tâm tịch diệt, ban tánh như hư không. Đó gọi là vô thượng đạo”.

KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT

Bài kệ của Phật Tỳ Bà Thi nói:

Thân từ trong vô tướng thọ sanh,
Dụ như huyễn, xuất các hình tượng.
Người huyễn, tâm thức xưa nay không,
Tội phước đều không, không chỗ trụ.

Bài kệ của Phật Thi Khí nói:

Tạo các pháp lành vốn là huyễn,
Tạo các nghiệp ác cũng là huyễn.
Thân như hòn bọt tâm như gió,
Huyễn hiện không nguồn, không thật tánh.

Bài kệ của Phật Tỳ Xá Phù nói:

Vay mượn bốn đại ngỡ là thân,
Tâm vốn không sanh nhơn cảnh có.
Cảnh trước nếu không tâm cũng không.
Tâm như huyễn khởi rồi diệt.

Bài kệ của Phật Câu Lưu Tôn nói:

Thấy thân không thật là Phật thấy
Rõ tâm như huyễn là Phật rõ.
Rõ được thân tâm bản tánh không.
Người nầy cùng Phật có khác gì?

Bài kệ của Phật Câu Na Hàm Mâu Ni nói:

Phật chẳng thấy thân biết là Phật.
Nếu thật có biết riêngkhông Phật.
Người trí hay biết tội tánh không,
Thản nhiên chẳng sợ việc sanh tử.

Bài kệ của Phật Ca Diếp nói:

Hết thảy chúng sanh tánh thanh tịnh,
Từ xưa không sanh không thể diệt.
Ngay thân tâm nầy là huyễn sanh.
Trong huyễn hoá không tội, không phước.

Bài kệ của Phật Thích ca Mâu ni nói:

Huyễn hoá không nhơn cũng không sanh,
Đều là tự nhiên thấy như vậy.
Các pháp thảy đều tự hoá sanh,
Huyễn hoá không sanh, không chỗ sợ.

LỜI CHƯ TỔ

Bài kệ của sơ Tổ Bồ đề đạt ma nói:

Chớ thấy ác mà sanh chán,
Chớ thấy thiện mà sanh ưa,
Chẳng bỏ trí mà gần ngu,
Chẳng lbỏ mê mà đốn ngộ.
Đạt đạo lớn chừ quá lượng,
Thông Phật tâm chừ vô số,
Chẳng cùng phàm thánh đồng vai,
Siêu nhiên gọi đó là TỔ.

Nhị Tổ nói: “Tâm nầy là Phật, tâm nầy là pháp, pháp và Phật không hai. Tăng bảo cũng vậy”.

Tam Tổ nói: “Mắt nếu chẳng ngủ các mộng tự trừ. Tâm nếu không khác muôn pháp nhứt như. Nhứt như thể mầu, như vậy quên duyên, muôn pháp đều thấy, trở về tự nhiên”.

Tứ Tổ nói với Ngưu đầu Pháp Dung rằng: “Trăm ngàn cửa diệu đồng về gang tấc, hằng sa công đức gom ở nguồn tâm. Tất cả định môn, huệ môn và hạnh môn đều đầy đủ, thần thông diệu dụng đều ở nơi tâm ông”.

Ngũ Tổ nói: “Muốn biết pháp yếu, tâm là căn bản của mười hai bộ kinh. Chỉ có pháp nhứt thừa, pháp nhứt thừanhứt tâm vậy. Chỉ giữ nhứt tâm tức là tâm chơn như môn. Hết thảy các pháp chẳng ra ngoài tự tâm, chỉ tự tâm biết tâm không hình sắc. Chư Tổ chỉ lấy tâm truyền tâm, bậc liễu đạt ấn khả, không pháp gì riêng”.

Lục Tổ nói: “Hết thảy các ngươi tự tâm là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài tâm không có một pháp có thể dựng lập, đều là tự tâm sanh muốn thứ pháp. Kinh nói: “Tâm sanh muôn ngàn pháp sanh”. Pháp kia không hai, tâm kia cũng vậy. Đạo kia thanh tịnh không có các tướng. Ông chớ quán thanh tịnh và không (rỗng) tâm kia Tâm nầy không hai, không thể thủ xả, đi đứng nằm ngồi đều một trực tâm tức là tịnh độ. Y lời nói ta nhứt định ông sẽ được bồ đề”.

TUYỆT QUÁN LUẬN CỦA ĐẠI SƯ NGƯU ĐẦU PHÁP DUNG

HỎI: Thế nào là tâm?

ĐÁP: Chỗ quan sát của sáu căn đều là tâm.

HỎI: Tâm chỗ nào?

ĐÁP: Tâm ngay chỗ diệt.

HỎI: Gì là thể?

ĐÁP: Tâm là thể.

HỎI: Gì là Tông (chủ)?

ĐÁP: Tâm là Tông.

HỎI: Gì là gốc?

ĐÁP: Tâm là gốc.

HỎI: Thế nào là định huệ đồng vui?

ĐÁP: Tâm tánh lặng lẽ là định, thường hiểu rõ cái lặng lẽ ấy là Huệ.

HỎI: Gì là trí?

ĐÁP: Cảnh dấy lên mà hiểu rõ là trí.

HỎI: Gì là cảnh?

ĐÁP: Tự thân tâm tánh là cảnh.

HỎI: Gì là thư (rải ra)?

ĐÁP: Dụng chiếu soi là thư.

HỎI: Gì là quyện (cuốn lại)?

ĐÁP: Tâm lặng lẽ không đến đi là quyện. Rải ra thì đầy khắp pháp giới, cuốn lại thì dấu vết khó tìm.

HỎI: Gì là pháp giới?

ĐÁP: Không bờ mé để chỉ bày được gọi là pháp giới.

Thiền sư Trù nói: “Hết thảy duyên bên ngoài gọi là tướng định, sự phải quấy sanh diệt, tất cả đều do tự tâm. Nếu tự tâmvô tâm ai ngại gì phải quấy? Năng sở đều không, tức các tướng đều lặng”.

Bài kệ của Bàng Cư Sĩ nói:

Muôn pháp từ tâm khởi,
Tâm sanh muôn pháp sanh.
Sanh sanh chẳng rõ có,
Tới lui uổng tu hành.
Nhắn gửi người tu đạo.
Không sanh, có chẳng sanh.
Nếu hay đạt lý nầy,
Chẳng động, thoát hầm sâu.

Bài ca của Hòa Thượng Đằng Đằng:

Tu đạo, đạo không thể tu,
Hỏi pháp, pháp không thể hỏi.
Người mê không ngộ sắc không,
Kẻ đạt vốn không nghịch thuận.
Tám muôn bốn ngàn pháp môn,
Rốt lý chẳng hơn gang tấc.
Phiền não chính là Bồ đề,
Hoa sạch sanh nơi bùn nhớp...
Chớ dối, chơi châu huyện khác.

Thiền sư Ngọa Luân nói: “Thấu đáo được tâm tánh kia trạm nhiên rỗng suốt, xưa nay chẳng sanh, cũng chẳng diệt, nào phải gom ép. Chỉ biết tâm khởi vọng, tức là phải hướng nơi phản chiếu lại nguồn tâm, không có gốc rễ tức là chỗ vô sanh. Vì vô sanh nên tâm tịch tĩnh vô tướng vô vi”.

Bài tụng của thiền sư Trí Đạt nói:

Cảnh lập, tâm liền có,
Tâm không, cảnh chẳng sanh.
Nếu đem tâm cột cảnh,
Tâm cảnh cả đều mà,
Cảnh tâm mỗi tự dừng,
Tâm cảnh tánh thường trong.
Ngộ cảnh tâm không khởi,
Mê tâm cảnh đồng hành,
Nếu mê tâm tạo cảnh,
Tâm cảnh loạn tung hoành,
Ngộ cảnh tâm vốn tịnh,
Biết tâm cảnh vốn trong.
Biết tâm không cảnh tánh,
Rõ cảnh tâm không hình.
Cảnh rỗng tâm lặng lẽ,
Tâm chiếu cảnh im lìm.

Đại sư Phổ Ngạn nói: “Đại đạo rộng lớn, chỉ một chơn tâm. Thiện ác chớ nghĩ thần trong, vật hiện, lại có lo gì?”.

Hòa Thượng Qui Sơn nói: “Các pháp trong ngoài đều chẳng thật, từ tâm hóa sanh, tất cả đều giả danh. Mặc tình pháp tánh châu lưu (trôi khắp), chớ đoạn cũng chớ tiếp tục”.

Hòa thượng Hoàng Bá nói: “Chỉ ngộ nhứt tâm lại không một pháp nhỏ có thể được. Đây tứ là chơn Phật. Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Chẳng bằng ngay nơi lời tự nhận giữ cái bổn pháp. Pháp nầy tức là tâm, ngoài tâm không pháp. Tâm nầy tức là pháp, ngoài pháp không tâm”.

Hòa thượng Ngưỡng Sơn nói: “Đốn ngộ tự tâm không tướng, dụ như hư không. Nương nơi căn mà phát minh, tức là bản tâm đủ hằng sa diệu dụng, không có chỗ gìn giữ riêng, không có chỗ an lập riêng, tức là quê nhà, tức là nước nhà”.

Hòa thượng An Quốc nói: “Kinh nói nên không có chỗ trụ mà sanh tâm. Không chỗ trụ ấy là chẳng trụ sắc, chẳng trụ thinh, chẳng trụ mê, chẳng trụ ngộ, chẳng trụ thể, chẳng trụ dụng. “Mà sanh tâm” ấy tức là tất cả chỗ mà hiển nhứt tâm. Nếu trụ vào thiện mà sanh tâm tức là điều thiện hiện. Nếu trụ vào ác mà sanh tâm tức là đều ác hiện, vậy thì bổn tâm liền ẩn mất. Nếu không chỗ trụ thì mười phương thế giới chỉ một tâm. Tin biết gió phan chẳng động, tâm ấy động”.

Hòa thượng Qui Tông nói: “Ngay tâm nầy là Phật, tột đáy chỉ có tánh. Sơn hà đại địa một pháp ấn định, là thần chú lớn chơn thật không dối, là bản nguyên của chư Phật, là cội gốc và là xương tủy của bồ đề. Phật thế nào mới phải? – Ngay lời nói nầy là phải, lại không người khác. Kinh nói: “Ví như một hình sắc tùy theo cái nhìn của chúng sanh mà có muôn ngàn tên. Tất cả pháp chỉ là một pháp, tùy chỗ mà mang tên”.

Bài kệ trong Luận Bảo Tánh nói:

Như hư không biến khắp cả,
hư không chẳng phân biệt.
Tự tâmvô cấu tâm,
Cũng không phân biệt cùng khắp.

Pháp sư Phục Lễ nói: “Xét về ý nghĩa của nghiệp, thì nghiệp do tâm khởi, tâm là dụng của nghiệp, nghiệp dẫn tâm thọ sanh, tâm theo nghiệp tạo cảnh. Vậy thì nhơn nghiệp mà thọ thân, thân trở lại tạo nghiệp. Từ tâm tạo cảnh, cảnh lại sanh tâm. Như bóng theo hình mà ngay hay cong, như vang theo tiếng mà có lớn hay nhỏ”.











Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32593)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6435)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12035)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12582)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34450)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10588)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10342)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16075)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7005)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12651)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16115)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20535)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13103)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant