Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương IX: Dẫn Chứng Lời Kinh

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10950)
Chương IX: Dẫn Chứng Lời Kinh

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

CHƯƠNG IX
DẪN CHỨNG LỜI KINH

Muôn pháp về tâm hỏi đáp rõ ràng. Bậc thượng căn vừa xem qua liền ngộ bản tâm, kẻ trung hạ căn ngu độn nghi ngờ bài báng chẳng tin, nên dẫn lời kinh của Phật để chứng minh hầu đaọn trừ những nghi hoặc, tin một cách thành thật chẳng lầm. Hoặc có người được ngộ, y lời dạy mà vâng làm, vào thẳng tòng lâm của Cổ phật, vượt ngang qua bờ cõi then chốt của Tổ Sư. Có thể bảo ngay nơi nhục nhãnviên thông Phật nhãn, ngay nơi tâm phàm mà hiển chơn tâm. Nay thuật lời trong kinh Phật và lời của Tổ sư để ấn chứng chánh lý qui tâm.

Kinh Bát Nhã nói: “Hết thảy chư Phật đồng ở một chỗ, gom về cảnh giới vô lậutự tánh thanh tịnh”.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lời lẽ thuyết pháp (của Như Lai), kẻ tiểu trí vọng phân biệt, nên sanh chướng ngại, chẳng rõ ở tự tâm. Không rõ tự tâm làm sao biết chánh đạo? Kẻ kia dùng tư tưởng điên đảo nên tăng trưởng tất cả điều ác”.

Kinh Lăng Già nói: “Đệ nhất nghĩa đế chỉ là tâm. Vô vàn tướng bên ngoài, tất cả đều không có. Kẻ phu kia chấp trước vào ác kiến, khi dối tự tha, không thấy rõ được chỗ trụ như thật của hết thảy các pháp. Đại Huệ! Hết thảy các pháp như thật, ấy nghĩa là hay liễu đạtduy tâm sở hiện”.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Người xuất gia làm sa môn, (phải) đoạn dứt ham muốn, khử trừ khát ái, biết được nguồn tâm của mình, đạt được lý gốc của Phật, ngộ pháp vô vi, bên trong không sở đắc, bên ngoài không sở cầu, tâm không hạn cuộc nơi đạo, cũng không tạo nghiệp, vô niệm vô tác, phi tu, phi chứng, phải trải qua các ngôi thứ mà tự cao tột. Đó gọi là Đạo!”

Kinh Bảo Vân nói: “Hết thảy các pháp, tâm là trên hết. Nếu biết tâm thì có thể biết được tất cả các pháp”.

Bài kệ trong Kinh Nhơn Quả nói: “Tạo tất cả thiện ác đều từ tâm tưởng sanh. Cho nên người xuất gia chơn chánh đều lấy sự minh tâm làm gốc”.

Kinh Niệm Phật Tam Muội nói: “Tâm như kim cang, với ngừoi thiệncăn hay xuyên thấu tất cả pháp. Tâm như áo Ca lân đề, với người thiện căn hay mềm dẻo. Tâm như bể cả, với người thiện căn hay nhiếp các giới tu. Tâm như đá bằng phẳng, với người thiện căn hay đứng giữ tất cả sự nghiệp. Tâm như núi chúa, với người thiện căn hay phát sanh tất cả pháp lành. Tâm như cõi đất, với người thiện căn hay gánh vácgìn giữ sự nghiệp cho chúng sanh”.

Kinh Định Ý nói: “Trong thiền định chẳng dính mắc trong ngoài, cũng không ở giữa, đó gọi là nhứt tâm”.

Kinh Bảo Khiếp nói: “Văn Thù sư lợi bảo Xá lợi Phất rằng như hoả tai cháy mạnh trong hằng sa kiếp, rốt lại cũng không đốt được hư không. Xá Lợi Phất! Cũng như vậy, mỗi mỗi chúng sanh tạo tội ngũ nghịch, cùng nghiệp chẳng lành trong hằng sa kiếp, nhưng mà tâm tánh họ rốt lại cũng chẳng thể nhơ”.

Bài kệ torng Kinh Đại hư không tạng Bồ tát sở vấn nói:

Hư không lìa sanh diệt
Pháp giới không tới lui
Các pháp nương tâm mà trụ.
Trong không, không có sắc phi sắc
Tâm tánh cũng như vậy
Hư không chỉ giả danh
Tâm ý thức cũng như vậy.

Bài kệ Kinh Lăng Già nói:

Các pháp không pháp thể
Mà nói chỉ là tâm
Chẳng thấy dược tự tâm
Mà khởi ra phân biệt.

Kinh Xuất Diệu nói: “Người thân mặc giáp giới luật, mà tâm không có gươm trí huệ, thì không làm tan hoại được bọn đầu sỏ kiết sử. Cho nên biết, nếu chẳng quán tâm cho diệu huệ thành tựu, thì không thể chặt đứt được căn bản vô minh”.

Kinh Niết Bàn nói: “Sư tử rống ấy là nói một cách quyết định rằng tất cả chúng sanh dều có Phật tánh. Nếu biết tự tâm mình Phật tánh đầy đủ, thì ngoài tánh lại có pháp đáng cầu ư?”.

Kinh Pháp Hoa Tam Muội nói: “Không dính mắc, không chỗ nương, không hệ luỵ vào tâm tịch diệt, ban tánh như hư không. Đó gọi là vô thượng đạo”.

KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT

Bài kệ của Phật Tỳ Bà Thi nói:

Thân từ trong vô tướng thọ sanh,
Dụ như huyễn, xuất các hình tượng.
Người huyễn, tâm thức xưa nay không,
Tội phước đều không, không chỗ trụ.

Bài kệ của Phật Thi Khí nói:

Tạo các pháp lành vốn là huyễn,
Tạo các nghiệp ác cũng là huyễn.
Thân như hòn bọt tâm như gió,
Huyễn hiện không nguồn, không thật tánh.

Bài kệ của Phật Tỳ Xá Phù nói:

Vay mượn bốn đại ngỡ là thân,
Tâm vốn không sanh nhơn cảnh có.
Cảnh trước nếu không tâm cũng không.
Tâm như huyễn khởi rồi diệt.

Bài kệ của Phật Câu Lưu Tôn nói:

Thấy thân không thật là Phật thấy
Rõ tâm như huyễn là Phật rõ.
Rõ được thân tâm bản tánh không.
Người nầy cùng Phật có khác gì?

Bài kệ của Phật Câu Na Hàm Mâu Ni nói:

Phật chẳng thấy thân biết là Phật.
Nếu thật có biết riêngkhông Phật.
Người trí hay biết tội tánh không,
Thản nhiên chẳng sợ việc sanh tử.

Bài kệ của Phật Ca Diếp nói:

Hết thảy chúng sanh tánh thanh tịnh,
Từ xưa không sanh không thể diệt.
Ngay thân tâm nầy là huyễn sanh.
Trong huyễn hoá không tội, không phước.

Bài kệ của Phật Thích ca Mâu ni nói:

Huyễn hoá không nhơn cũng không sanh,
Đều là tự nhiên thấy như vậy.
Các pháp thảy đều tự hoá sanh,
Huyễn hoá không sanh, không chỗ sợ.

LỜI CHƯ TỔ

Bài kệ của sơ Tổ Bồ đề đạt ma nói:

Chớ thấy ác mà sanh chán,
Chớ thấy thiện mà sanh ưa,
Chẳng bỏ trí mà gần ngu,
Chẳng lbỏ mê mà đốn ngộ.
Đạt đạo lớn chừ quá lượng,
Thông Phật tâm chừ vô số,
Chẳng cùng phàm thánh đồng vai,
Siêu nhiên gọi đó là TỔ.

Nhị Tổ nói: “Tâm nầy là Phật, tâm nầy là pháp, pháp và Phật không hai. Tăng bảo cũng vậy”.

Tam Tổ nói: “Mắt nếu chẳng ngủ các mộng tự trừ. Tâm nếu không khác muôn pháp nhứt như. Nhứt như thể mầu, như vậy quên duyên, muôn pháp đều thấy, trở về tự nhiên”.

Tứ Tổ nói với Ngưu đầu Pháp Dung rằng: “Trăm ngàn cửa diệu đồng về gang tấc, hằng sa công đức gom ở nguồn tâm. Tất cả định môn, huệ môn và hạnh môn đều đầy đủ, thần thông diệu dụng đều ở nơi tâm ông”.

Ngũ Tổ nói: “Muốn biết pháp yếu, tâm là căn bản của mười hai bộ kinh. Chỉ có pháp nhứt thừa, pháp nhứt thừanhứt tâm vậy. Chỉ giữ nhứt tâm tức là tâm chơn như môn. Hết thảy các pháp chẳng ra ngoài tự tâm, chỉ tự tâm biết tâm không hình sắc. Chư Tổ chỉ lấy tâm truyền tâm, bậc liễu đạt ấn khả, không pháp gì riêng”.

Lục Tổ nói: “Hết thảy các ngươi tự tâm là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài tâm không có một pháp có thể dựng lập, đều là tự tâm sanh muốn thứ pháp. Kinh nói: “Tâm sanh muôn ngàn pháp sanh”. Pháp kia không hai, tâm kia cũng vậy. Đạo kia thanh tịnh không có các tướng. Ông chớ quán thanh tịnh và không (rỗng) tâm kia Tâm nầy không hai, không thể thủ xả, đi đứng nằm ngồi đều một trực tâm tức là tịnh độ. Y lời nói ta nhứt định ông sẽ được bồ đề”.

TUYỆT QUÁN LUẬN CỦA ĐẠI SƯ NGƯU ĐẦU PHÁP DUNG

HỎI: Thế nào là tâm?

ĐÁP: Chỗ quan sát của sáu căn đều là tâm.

HỎI: Tâm chỗ nào?

ĐÁP: Tâm ngay chỗ diệt.

HỎI: Gì là thể?

ĐÁP: Tâm là thể.

HỎI: Gì là Tông (chủ)?

ĐÁP: Tâm là Tông.

HỎI: Gì là gốc?

ĐÁP: Tâm là gốc.

HỎI: Thế nào là định huệ đồng vui?

ĐÁP: Tâm tánh lặng lẽ là định, thường hiểu rõ cái lặng lẽ ấy là Huệ.

HỎI: Gì là trí?

ĐÁP: Cảnh dấy lên mà hiểu rõ là trí.

HỎI: Gì là cảnh?

ĐÁP: Tự thân tâm tánh là cảnh.

HỎI: Gì là thư (rải ra)?

ĐÁP: Dụng chiếu soi là thư.

HỎI: Gì là quyện (cuốn lại)?

ĐÁP: Tâm lặng lẽ không đến đi là quyện. Rải ra thì đầy khắp pháp giới, cuốn lại thì dấu vết khó tìm.

HỎI: Gì là pháp giới?

ĐÁP: Không bờ mé để chỉ bày được gọi là pháp giới.

Thiền sư Trù nói: “Hết thảy duyên bên ngoài gọi là tướng định, sự phải quấy sanh diệt, tất cả đều do tự tâm. Nếu tự tâmvô tâm ai ngại gì phải quấy? Năng sở đều không, tức các tướng đều lặng”.

Bài kệ của Bàng Cư Sĩ nói:

Muôn pháp từ tâm khởi,
Tâm sanh muôn pháp sanh.
Sanh sanh chẳng rõ có,
Tới lui uổng tu hành.
Nhắn gửi người tu đạo.
Không sanh, có chẳng sanh.
Nếu hay đạt lý nầy,
Chẳng động, thoát hầm sâu.

Bài ca của Hòa Thượng Đằng Đằng:

Tu đạo, đạo không thể tu,
Hỏi pháp, pháp không thể hỏi.
Người mê không ngộ sắc không,
Kẻ đạt vốn không nghịch thuận.
Tám muôn bốn ngàn pháp môn,
Rốt lý chẳng hơn gang tấc.
Phiền não chính là Bồ đề,
Hoa sạch sanh nơi bùn nhớp...
Chớ dối, chơi châu huyện khác.

Thiền sư Ngọa Luân nói: “Thấu đáo được tâm tánh kia trạm nhiên rỗng suốt, xưa nay chẳng sanh, cũng chẳng diệt, nào phải gom ép. Chỉ biết tâm khởi vọng, tức là phải hướng nơi phản chiếu lại nguồn tâm, không có gốc rễ tức là chỗ vô sanh. Vì vô sanh nên tâm tịch tĩnh vô tướng vô vi”.

Bài tụng của thiền sư Trí Đạt nói:

Cảnh lập, tâm liền có,
Tâm không, cảnh chẳng sanh.
Nếu đem tâm cột cảnh,
Tâm cảnh cả đều mà,
Cảnh tâm mỗi tự dừng,
Tâm cảnh tánh thường trong.
Ngộ cảnh tâm không khởi,
Mê tâm cảnh đồng hành,
Nếu mê tâm tạo cảnh,
Tâm cảnh loạn tung hoành,
Ngộ cảnh tâm vốn tịnh,
Biết tâm cảnh vốn trong.
Biết tâm không cảnh tánh,
Rõ cảnh tâm không hình.
Cảnh rỗng tâm lặng lẽ,
Tâm chiếu cảnh im lìm.

Đại sư Phổ Ngạn nói: “Đại đạo rộng lớn, chỉ một chơn tâm. Thiện ác chớ nghĩ thần trong, vật hiện, lại có lo gì?”.

Hòa Thượng Qui Sơn nói: “Các pháp trong ngoài đều chẳng thật, từ tâm hóa sanh, tất cả đều giả danh. Mặc tình pháp tánh châu lưu (trôi khắp), chớ đoạn cũng chớ tiếp tục”.

Hòa thượng Hoàng Bá nói: “Chỉ ngộ nhứt tâm lại không một pháp nhỏ có thể được. Đây tứ là chơn Phật. Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Chẳng bằng ngay nơi lời tự nhận giữ cái bổn pháp. Pháp nầy tức là tâm, ngoài tâm không pháp. Tâm nầy tức là pháp, ngoài pháp không tâm”.

Hòa thượng Ngưỡng Sơn nói: “Đốn ngộ tự tâm không tướng, dụ như hư không. Nương nơi căn mà phát minh, tức là bản tâm đủ hằng sa diệu dụng, không có chỗ gìn giữ riêng, không có chỗ an lập riêng, tức là quê nhà, tức là nước nhà”.

Hòa thượng An Quốc nói: “Kinh nói nên không có chỗ trụ mà sanh tâm. Không chỗ trụ ấy là chẳng trụ sắc, chẳng trụ thinh, chẳng trụ mê, chẳng trụ ngộ, chẳng trụ thể, chẳng trụ dụng. “Mà sanh tâm” ấy tức là tất cả chỗ mà hiển nhứt tâm. Nếu trụ vào thiện mà sanh tâm tức là điều thiện hiện. Nếu trụ vào ác mà sanh tâm tức là đều ác hiện, vậy thì bổn tâm liền ẩn mất. Nếu không chỗ trụ thì mười phương thế giới chỉ một tâm. Tin biết gió phan chẳng động, tâm ấy động”.

Hòa thượng Qui Tông nói: “Ngay tâm nầy là Phật, tột đáy chỉ có tánh. Sơn hà đại địa một pháp ấn định, là thần chú lớn chơn thật không dối, là bản nguyên của chư Phật, là cội gốc và là xương tủy của bồ đề. Phật thế nào mới phải? – Ngay lời nói nầy là phải, lại không người khác. Kinh nói: “Ví như một hình sắc tùy theo cái nhìn của chúng sanh mà có muôn ngàn tên. Tất cả pháp chỉ là một pháp, tùy chỗ mà mang tên”.

Bài kệ trong Luận Bảo Tánh nói:

Như hư không biến khắp cả,
hư không chẳng phân biệt.
Tự tâmvô cấu tâm,
Cũng không phân biệt cùng khắp.

Pháp sư Phục Lễ nói: “Xét về ý nghĩa của nghiệp, thì nghiệp do tâm khởi, tâm là dụng của nghiệp, nghiệp dẫn tâm thọ sanh, tâm theo nghiệp tạo cảnh. Vậy thì nhơn nghiệp mà thọ thân, thân trở lại tạo nghiệp. Từ tâm tạo cảnh, cảnh lại sanh tâm. Như bóng theo hình mà ngay hay cong, như vang theo tiếng mà có lớn hay nhỏ”.











Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16024)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15032)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18956)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14450)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13588)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13554)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11821)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13665)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13938)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16163)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11906)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17598)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12877)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13716)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16390)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13128)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12091)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12774)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12917)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12790)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14121)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16479)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12380)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14389)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11328)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13006)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13506)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13967)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13705)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16268)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11660)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12681)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12766)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12620)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant