Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Cõi Người

25 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 17769)
4. Cõi Người

VÒNG LUÂN HỒI
(THE WHEEL OF LIFE)
Thích Nữ Giới Hương

CHƯƠNG IV
VÒNG KHỔ

4/ CÕI NGƯỜI


Trên hành tinh trái đất này chúng ta có năm châu là Châu Á, Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi, Nam và Bắc cực. 

Đức Phật đã bảo ngài Mục Kiền Liên minh hoạ bức tranh của kiếp người có tám khổ như sanh, lão, bịnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổngũ ấm xí thịnh. Nào là có cảnh chiến tranh, xe tăng, súng đạn, có nạn lũ lụt, cháy nhà, lũ lụt, cảnh em ra đời, lớn lên, nằm ở giường bịnh, già yếu chống gậy và quan tài chờ đợi.

Khi tinh trùng của người cha kết hợp với tiểu noãn của người mẹ, thần thức gá vào và lúc đó bắt đầu một kiếp sống mới. Và tùy theo nghiệp lực của mình mà tinh trùng hay trứng đó là của loài người hay loài thú. 

Cũng như loài vật, con người sanh từ bụng mẹ (bụng của con người). Chỗ sanh bất tịnhtử cung, cạnh vòng ruột già non, trong máu tanh, nước nhớt và vừa là thức ăn. Đây là nơi bắt đầu thành thân, thật chẳng đáng tự hào chút nào!

Đức Phật dạy sắc thân chúng ta từ bất tịnh nghiệp đời trước mà sanh. Nghiệp chuyển nơi thức đem vào thai mẹ và có năm trùng không tịnh. Năm trùng không tịnh là:

1. Chỗ sanh bất tịnh: thân này chẳng phải hoa sen, chiên đàn, mà được nuôi lớn trong máu mủ. Ở bên cạnh phân uế từ đường tiểu tiện dơ dáy mà ra.
2. Chủng tử bất tịnh: vơ hai giọt tinh cha, huyết mẹ làm thể chất.
3. Tướng bất tịnh: Thân này không gì ngoài chín lỗ ( hai lỗ mắt, hai lỗ mũi, miệng, tai…) và 32 thể trược (tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu).
4. Tánh bất tịnh: Từ dâm dục uế nghiệp mà sanh, lấy ái dục làm thể chất. Nếu không tu các pháp quán để cải biến thì lấy hết nước biển cả để rửa cũng không thể sạch.
5. Cứu cánh bất tịnh: Nghiệp tận mệng chung có chín tướng đáng chán hiện ra gọi là cửu tưởng:

i. Trướng tưởng (sau khi tắt hơi rồi, không còn thức thứ tám trì giữ mạng căn nên thi thể bắt đầu phồng lên)
ii. Thanh tưởng (rồi xanh tái đen)
iii. Hoại tưởng (da thịt bắt đầu bở toét như bánh mì nhúng nước nứt nở và mềm bủng ra)
iv. Huyết đồ tưởng (các thứ nước, máu mủ trong thân chảy ra)
v. Nồng lãng tưởng (thi thể nát bét rồi, nên mùi hôi thối xông ra)
vi. Hám tưởng (da thịt rục rã)
vii. Tán tưởng (thịt tan, còn xương)
viii. Cốt tường (xương cũng mòn dần)
ix. Thiêu tưởng (tro bụi của xương cũng tan theo hư không và không còn để lại dấu vết gì)

Chúng ta có năm trùng bất tịnh đó nhưng chui ra thai mẹ lại quên hết. Ra đời chỉ biết khóc, rồi lớn lên bao nhiêu bất tịnh khổ sở của thân cũng quên hết, tranh đấu cực nhọc cho cuộc sống để rồi chuẩn bị đi đến già bịnh. Thân bằng cơm gạo rốt cuộc trả về cho đất, chết là dấu chấm cuối cùng. Nhưng chúng ta không phải làm dấu chấm, hay chấm phẩy mà là dấu phảy liền. Vì đâu đã hết liền, đâu phải chết là hết. Tinh thần lại mê muội lại đi đầu thai, lại vào bào thai, để lại ở bụng mẹ ra gọi là sanh, rồi bỏ vào quan tài gọi là tử; hoặc vào trứng gà, bụng cá… gọi mình là gà, cá. Khi ở địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, khi ở cõi trời, cõi người, cứ thế xoay vần trong ba vòng ‘Hoặc-Nghiệp-Khổ’, xoay vần sanh tử luân hồi như đã từng trải qua từ lịch kiếp.

Chúng ta thường ở trong tam đồ, bát nạn từ lịch kiếp. Tam đồ là: địa ngục, ngạ quỷbàng sanh. Bát nạn là: 

1. Nạn trời vô tưởng (vì sống lâu mà không gặp Phật)
2. Bắc câu lư châu: Phiá bắc của núi tu-di. Giữ thập thiện được an vui, nhưng không chịu khó tu học nên chẳng gặp Phật.
3. Nạn sanh trước và sau Phật: Phật trước đã qua. Phật Di lặc lại chưa đến. Lại ở chỗ chẳng có Phật nào truyền bá.
4. Nạn thế trí biện thông: Tâm trí lanh lợi, chỉ ưa đắm kinh sách ngoại đạo, ngoại điển, chẳng tin chánh pháp xuất thế. Thế là bị chướng nạn đối với Phật pháp.
5. Nạn si, lung, âm và á: điếc, đui, câm và ngọng.
6. Súc sanh
7. Ngạ quỷ
8. Địa ngục.

Tập quan sát chúng ta đang ở trong những nạn và những báo chướng bất tịnh như thế. Tập quan sát sự thậtbiết thân phận chúng ta như thế để tránh không bị ảo kiến đánh lừa (kiến trược). Lo luyện tâm, khôi phục quyền tự chủ, để kiến tạo đạo nghiệp.

Cũng đồng nghiệp làm kiếp người, nhưng có nhiều biệt nghiệp riêng. Có chúng sanh bần tiện, cao sang, xinh đẹp, xấu xímay mắn, bất hạnh… đều do hạnh nghiệp chánh kiến hay tà kiến, thiện hạnh hay ác hạnh ở thân, miệng và ý. Trong Tăng chi bộ kinh, Đức Phật dạy Mạt Lợi, hoàng hậu của vua Ba Tư Nặc rằng:

Này Mạt Lợi phu nhân! kẻ hay phẫn nộ, hễ trái tai gai mắt liền nổi nóng sừng sộ gây sự sẽ tái sanh với hình dung xấu xí. Hiện tại keo kiệt không bố thí, mai sau chịu nghèo khổ túng thiếu. Thấy ai được lợi dưỡng cung kính hơn mình, thì tức tối ganh tị, cảm quả báo làm người hèn hạ, không uy tín.

Này Mạt Lợi phu nhân! nếu người hay bất mãn phẫn nộ nhưng chăm bố thí thì tái sanh tuy dung sắc xấu mà giàu sang.

Những ai tâm từ hoà lại chăm bố thí, không ganh tị tật đố sẽ tái sanh dung sắc thù thắng, giàu sang và có uy tín lớn.

Này Mạt Lợi, bố thí đem phước báu thế gian. Quả báo đến có hai cách. Có người phải bôn ba mới kiếm ra tài vật (do người đến xin, cầu khẩn mình mới bố thí hay giúp đỡ). Có người ngồi mát ăn bát vàng (vì xưa kia đã tận tình đích thân đi tìm những khổ nạn để cứu vớt, không phải đợi người đến tận nơi cầu xin mới giúp). Người có tâm vị tha luôn nghĩ đến nhu cầu của xung quanh, mong giải quyết hộ. Những người này đời sau mơ ước điều gì đều như ý. Như vậy, tuy đồng nghiệp là người nhưng theo biệt nghiệp từng người mà có khác. Đây là những nhân quả sai biệt của loài chúng sanh gọi là con người

Đây là những việc làm bố thí của trời người, hưởng phước của trời người, nhưng nếu bố thítrí tuệ Bát Nhã, quán tam luân không tịch[18] sẽ chuyển phước này thành bồ tát hạnh, để viên mãn biển phước trang nghiêm của tuệ giác.

Cũng trong Tăng Chi Bộ kinh, Đức Phật giảng lý nhân quả cho ngài Xá Lợi Phất rằng nếu chúng ta hứa hẹn với ai một điều gì mà không giữ thì mai sau sẽ bị thất vọng. Nếu đúng như lời hứa thì mai sau sự nghiệp sẽ thành tựu như ý. Nếu mình bố thí nhiều hơn lời mình đã hứa thì quả báo khó nghĩ bàn. Hứa là tạo niềm hy vọng. Thất hứa là đem thất vọng nên quả báo sẽ bị tuyệt vọng.

Thọ giới là hứa với tam bảo ban cho chúng sanh nơi nương tựa, niềm an ủi. Nếu chúng ta thất hứa thì hậu quả sẽ vô cùng nặng nề. Ngược lại hẳn công đức vô biên.

Trước kia chúng ta có thể là người có nhân cách kém cỏi. Bản ngã chúng ta thường phình to cho đây là ta, của ta, tôn giáo ta, chùa của ta, Phật tử của ta; kia là tôn giáo khác, người khác… rồi không có cái ta nào chịu thua cái ta nào. Như thế là tạo sự phân hoá, chia rẽ cộng động và thù ghét lẫn nhau. Nếu giờ biết thoát khỏi sự kềm tỏa của bản ngã thì chúng ta trở nên cao thượng, độ lượng. Trước kia nhỏ mọn ích kỷ, bây giờ rộng rãi, bố thí, dễ tha thứ hơn. Trước kia hay nổi nóng và bây giờ thì dễ trầm tĩnh hơn. Trước kia hay xúc động và bây giờ thì dễ bình thản hơn. Từ đây tâm từ bi của chúng ta được tăng trưởng, xem nhẹ của cải vật chất và biết quý trọng những giá trị tinh thần. Những vị biết tự điều như thế này thường sống thuận theo ý kiến của mọi người, giống như lời bày tỏ của tôn giả A-nậu-lâu-đà: “Con không sống bằng tâm của con mà con sống bằng tâm của huynh đệ”.

Đây cũng chứng minh hệ quả của văn minh nhân loại. Khi tư duy chúng ta càng phát triển cao hơn, lý trí dần dần vượt khỏi sự kềm toả của bản ngãnhận ra sự đồng thể tướng và tánh chung của tất cả, nên lấy vạn pháp làm mình, lấy tâm huynh đệ, tâm chúng sanh làm tâm mình ‘vạn pháp duy tâm’.

Thân ta có tướng cứng là địa đại, thẩm ướt là thuỷ đại, hơi ấm là hoả đại và lay động là phong đại. Do bốn cái này ràng buộc mà chia cái tâm tính diệu minh vắng lặng cùng khắp (Phật tánh bản lai) của chúng ta thành hạn định trong cái thấy nghe hay biết. Xét từ đầu đến đuôi tạo thành năm thứ ô trược, nghĩa là loài người chúng ta bị buộc trong năm lớp vô minh này: 

1) Hiện đang ở trong kiếp trược, quyết định đang bị vô lượng khổ áp bức. 2) Kiến trược là đang bị cái xảo trá chỉ huy.
3) Phiền não trượctham dục, sân hận các thứ tâm độc kích thích.
4) Chúng sanh trược là cứ cam phận sống đắng cay, chết đọa đày, không bao giờ ngờ rằng mình có đường lối thoát ly, thoát khổ, vì bản tánh mình vốn tự chân thường, chân lạc, chân ngãchân tịnh.
5) Mạng trược là bị ma lực vô thường như lửa cháy bốn bên mà cứ rong chơi nô đùa, đâu có tỉnh ngộ.

Chúng ta không biết rằng dầu cõi người đang bị năm trược bao phủ nhưng trong sáu cõi hay bảy cõi thú chỉ có lòai người mới có thể ra được vòng lửa sanh tử nghĩa là có duyên nghe Phật pháp, hiểu và biết phương pháp để đi ra khỏi nhà lửa, trong khi cõi trời thì bị gây mê hưởng phước nên không có lo tu; còn các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì đau khổ quá không có tinh thần đâu để hiểu và để tu. Thế nên, trên bức tranh ta thấy lửa đỏ bao phủ xung quanh không có lối thoát, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy một đường đi nhỏ như sợi chỉ trắng nhỏ từ vòng nghiệp, có bốn chúng cầm đèn đi lên ngang qua cõi người và thoát ra khỏi bánh xe lửa đỏ. Trong khi năm cõi khác hoàn toàn kín mít chìm trong lửa.








Ý kiến bạn đọc
09 Tháng Bảy 202311:19
Khách
A Di Đà Phật
Mong bạn đăng bài thì thay phông nền, khó đọc lắm.
Tốt nhất là nền 1 màu, không có hoa văn gì
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11635)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11959)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11343)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12558)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10766)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17978)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11727)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9947)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12349)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15339)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11240)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12000)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11184)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10613)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13169)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14840)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12679)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16575)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19664)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13108)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12666)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12263)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11847)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13523)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11949)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12766)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14516)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9864)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18015)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9079)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13048)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12198)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15310)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14270)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19699)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10691)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant