Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6. Ngạ Quỷ

25 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 24912)
6. Ngạ Quỷ

VÒNG LUÂN HỒI
(THE WHEEL OF LIFE)
Thích Nữ Giới Hương

CHƯƠNG IV
VÒNG KHỔ

6/ NGẠ QUỶ

Ngạ quỷ cũng là một trong vô số các loài chúng sanh trong vũ trụ này. Loài chúng sanh này có sự thọ dụng cảnh giới thuần khổ và bị đói khát liên tục. Nguyên nhân căn bản là do những chúng sanh này khi sanh tiền tâm chứa đầy những ý niệm tham lam, bỏn xẻn, không thích làm những việc lành, bố thí, cúng dường, sau khi chết đọa vào cảnh giới ngạ quỷ.

Quỷ thường chịu hai báo chướng

1) Nội chướng: Cổ như cây kim, miệng như ngọn đuốc, bụng to như cái trống và toàn lửa, rất khó uống ăn. Đây là quả báo của những tâm hồn khô khan, bỏn sẻn không biết bố thí. Có quỷ ăn được nhưng thức ăn vào bụng liền biến thành gươm đao, đâm lại vào da thịt mình. Đây là vì đã bố thí với độc tâm hoặc ác khẩu.

Buổi chiều là giờ ăn của quỷ,[22] nên trong chùa khuyên tránh ăn chiều tối. Nếu có ăn thì xem đó như dược thực (thuốc để chữa bịnh đói khát, khô gầy) và tránh đừng khua đũa bát khiến quỷ thấy sự ăn uống, vì thèm khát miệng phực ra lửa. 

Như ngài Mục Kiền Liên dâng cơm cho mẹ. Bà Thanh Đề đói quá, một tay bốc ăn, một tay che, sợ quỷ khác giành ăn. Nhưng cơm vừa đưa đến miệng liền hoá than hồng. Bà đói khát cùng cực mà không thể thọ dụng thức ăn được. 

2) Ngoại chướng: Quỷ ở trong cảnh lửa hoặc máu mủ, bị dao đâm gậy đánh liên tục. Dòng sông đối với quỷ nếu khôngmáu mủ thì cũng khô cạn toàn là cát nóng. Có ngạ quỷ ở trong sông nước cả ngàn năm mà không sao hớp được một ngụm cho đỡ khát, chỉ thấy toàn sạn cát nóng. Cảnh trăng thanh gió mát thì do nghiệp báo quỷ thấy thành mặt trời nóng bức và ngược lại. Cây trĩu đầy quả thì thấy khô cằn héo hon không có trái nào và ngược lại.

Quỷ có bốn loại:

1/ Có phước: nên được ăn uống nhiều: a) Có thế lực lớn, cung điện trang nghiêm; b) Trông mong thờ cúng, đi trên hư không hoặc ở nhà xưa của mình hoặc ở mộ địa được bà con cúng (vì trước có bố thí); c) Ăn đờm dãi, phân uế và các thứ thiu thối.

2/ Ít phước: được ăn chút ít: a) Lông kim: tự đâm, đâm thân mình, đau đớn cuồng chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ bẩn; b) Lông thối: Cào vốc nhổ lông vì mùi hôi thối khiến rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu mới được ăn chút nhơ bẩn; c) Bướu lớn: Nhức nhối, chảy mủ máu hôi thối, bốc lấy ăn cho đỡ đói.

3/ Không phước: Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy: a) Miệng thối; b) Toàn thân là lửa như cây đuốc; c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.

Có rất nhiều quỷ như:

1. Quỷ bị vạc nước sôi nung nấu (làm nghề sát sanh hoặc có nợ không trả mà còn chống cự)
2. Miệng nhỏ như trôn kim
3. Ăn đồ mửa
4. Ăn phân
5. Ăn lửa
6. Ăn hơi
7. Ăn pháp (xưa kia nói pháp cầu lợi, nay đói khát, chỉ nhờ nghe pháp mà mạng được tồn tại)
8. Khô khan thèm nước uống
9. Hy vọng trông mong bà con cúng vái (buôn bán dối trá lấy vật của người)
10. Ăn đồ khạc nhổ (đã đem đồ bất tịnh cúng tăng)
11. Ăn tràng hoa (đã ăn trộm hoa của tam bảo)
12. Ăn máu (hay sát sanh)
13. Ăn thịt
14. Ăn nhang (hay ngửi và trộm nhang của chùa)
15. Đi nhanh, lửa cháy đốt thân
16. Mỗi lông trong mình đều tuôn lửa
17. Hắc ám: ở chỗ tối tăm có rắn cắn mổ (xưa kia vì mưu cầu tiền bạc mà vu oan)
18. Đại lực thần thông nhưng chịu nhiều khổ não (ăn trộm của người này, đem cho người khác)
19. Lúc nào cũng có cảm giác bị phừng cháy (giết người, cướp của)
20. Rình con nít đại tiện, tiểu tiện để ăn hơi khí bất tịnh
21. Dâm dục (quyến rũ người làm việc này để lấy tiền sinh lợi như tú bà tức chủ chứa gái)
22. Ở cồn biển (do lừa gạt người bịnh lấy tiền)
23. Cầm gậy hầu (làm quan nịnh vua tạo ác)
24. Ăn thịt con nít
25. Ăn tinh khí người
26. La sát (sát sanh)
27. Ăn lửa (tham ăn vật của tăng và Tam Bảo)
28. Ở các đường hẻm ăn đồ bất tịnh
29. Ăn gió (ưa hứa xuông, rồi không làm)
30. Ăn than (hành hạ tội nhân không cho ăn uống)
31. Ăn chất độc
32. Ở cánh đồng
33. Ăn tro nóng, chỗ thiêu thây người chết
34. Ở dưới gốc cây (người trồng cây để bố thí, mình ác tâm chặt đi)
35. Ở các nẻo đường giao thông (bóc lột khách đi đường)
36. Mara: Ma quỷ phá hoại người tu hành

Trong Ngạ Quỷ sự (kinh Petakhatha) liệt kê tên và hình tướng của các quỷ như:

1. Atthisankhalika: Chỉ có bộ xương bay trong hư không khóc la thảm thiết, chim đuổi theo mổ vào những kẽ xương
2. Mainsapesi: Quỷ hình như khối thịt bị chim mổ xẻ (sát sanh làm kế sanh nhai)
3. Mainsapinda: Quỷ hình như cục thịt (lúc sống làm thợ săn)
4. Vicchavi: thịt đỏ trùng rúc rỉa
5. Asloma: Lông như lưỡi dao nhọn bay lên, bay xuống đâm vào thân
6. Sattiloma: Lưỡi kiếm bay lên, bay xuống đâm vào thân
7. Usuloma: Mũi tên lên xuống
8. Suciloma: kim lên xuống (đã dùng sắt nhọn đâm thúc ngựa, bò, trâu chạy nhanh)
9. Cumbhanda: Ngọc hành thật to không ngồi được, cứ phải đi, chim mổ rỉa (xử oan người để đòi hối lộ)
10. Gidhakhadi: Ăn ở trong phân (đem đồ bất tịnh cúng dường tăng ni)
11. Okilini: Than nóng xối thân
12. Ansakabandha: Quỷ không đầu, mắt mũi miệng ở giữa ngực (làm nghề đao phủ)
13. Pabbazila: thân lửa (xuất gia phá giới)
Những quỷ kể trên đã phải trả quả trong địa ngục, nay chịu dư báo trong 10 kiếp đến 500 kiếp. Trai tăng hồi hướng phước báo có thể siêu thoát.
14. Vantasa: Lông tóc xồm xoàm, chân tay cong queo, bụng to phềnh, răng lởm chởm, chân hôi thối, ghẻ lở, ăn đồ khạc nhổ, ở chỗ dơ bẩn (do xả bẩn, nhổ bẩn trên nền chùa)
15. Xumpa: Bụng phệ, mắt to bằng cái chén, răng bằng lưỡi cuốc, tóc phết gót, đầu to hơn thân, hôi thối tanh nồng, ăn ròng máu mủtử thi, nhưng càng ăn càng đói (cúng dường những thứ cấm cho người tu)
16. Gutha: Ở gần cầu tiêu, ăn phân máu (xấc xược với người tu, bỏn xẻn với cha mẹ)
17. Aggisala: Thân lửa bốc khói, đói khát mà không thể chết (khinh báng tăng ni)
18. Sucimlbkha: Miệng nhỏ dài nhọn như cây kim, thân to lớn, trọn đời đói khát ở rừng sâu (keo rít để cha mẹ đói khát hoặc đến phá hoa, lá, vườn ruộng nhà chùa)
19. Xanhaji: Uống thì nước hoá lửa, ăn thì món ăn thành lửa
20. Nijjha: Miệng mọc đuôi dài hôi thối, chẳng bao giờ ăn uống (ác khẩu với tăng ni, chế giễu người tàn tật, ly gián người giới hạnh)
21. Sabbanka: Mình đầy ghẻ lở, ruồi nhặng bu khắp. Đói quá lấy móng tay nhọn như dao tự móc thịt ăn. Vừa ăn, vừa khóc, càng ăn càng đói. Loài quỷ này rất nhiều ở các thung lũng, núi non và cồn bãi. (bất hiếu cha mẹ, phản bội ân nhân)
22. Pappanka: thịt cứng như đất, lửa cháy đỏ, đói khát cả triệu năm ở trên (chửi oan người đức hạnh)
23. Ajagara: Thân dài như con trăn, mình lớn bằng con voi, nhiều đầu… khắp mình lửa cháy, đói khát trường kỳ, ngày đêm kêu khóc. Ở núi rừng cồn bãi có rất nhiều loài này (hung dữ mắng chửi cha mẹ và những bậc đức hạnh)
24. Vemanika: Nửa tháng thọ vui như cõi trời. Nửa tháng thọ khổ như ở địa ngục tra khảo chúng sanh. Đói khát đau khổ vô cùng (si mê nên ai rủ làm ác thì làm ác. Ai rủ làm phước thì làm phước)
25. Mahiddhika: Thân đẹp như Thiên Tử thần thông, có thần thông bay trong hư không, y phục toàn ngọc báu nhưng thân thể hôi thối, đói khát cả vạn năm. Món ăn cứ đặt vào miệng liền biến thành sắt nóng nung đỏ, cháy xém mồm miệng ruột gan (xuất gia, tà mạng, cầu danh lợi, phá giới)
26. Ahi: Mình rắn đầu người. Lớn như trái núi, giãy dụa khóc la, sống lâu trong rừng núi (sân giận phá chùa am)
27. Nimygga: Cứ phải cắm đầu xuống hầm phân, ăn đầy bụng mới trồi lên được, rồi lại cắm đầu xuống cứ thế trọn đời (tà dâm để thống khổ cho vợ con. Tội ở địa ngục, nay là dư báo)
28. Sukara: Đầu heo, miệng lở thối (ác khẩu)
29. Manguhi: Lác, cùi, hôi thối, trôi nổi trong hư không, diều hâu mổ cắn (mưu mô bóc lột người)
30. Chataka: Không quần áo, không ăn uống, sống lâu 90 kiếp. Giống quỷ này rất đông (do khi sống không kính ngôi Tam Bảo)
31. Surruta: Ban ngày cầm buá đập nhau bể sọ, sưng nát mình mẩy. ban đêm lửa cháy toàn thân. Đến sáng lửa tắt, lại cầm búa đập nhau. (buông lung uống rượu, chơi chọi trâu, chọi gà…)

Từ Bi Sám Pháp dạy: 

1. Mỗi bên nách đều có vành sắt nóng đốt thân cháy rực (sadi chia bánh cúng chúng, ăn trộm hai chiếc kẹp nách)
2. Trên vai có bình nước sôi, tự tay lấy gáo múc xối trên đầu, đau đớn than khóc (Duy na nấu sữa nhưng không chia đều. Đợi khách tăng đi rồi mới chia cho chúng trong chùa. Những tội báo trên đều là hoa báo. Quả ở địa ngục).

Kinh Địa Tạng: Các quỷ vương có các hình tướng và tánh khí như mắt ác, ăn thai trứng, hành hình, ác độc, đa ác, đại tránh, huyết hổ, xích hổ, tán vương, phi thân, điện quang, lang nha, ăn thú vật, đội đá, chủ hao, chủ họa, chủ phước, chủ tài, chủ súc, chủ cầm, chủ mị, chủ sản, chủ tật, chủ mạng, chủ hiểm, ba mắt, bốn mắt, năm mắt, kỳ lợi thất, đại kỳ lợi thất, kỳ lợi xoa, đại kỳ lợi xoa, a na tra và đại a na tra.

Có bốn Thiên vương thống lãnh tám bộ quỷ thần:

1. Càn thát bà (nhạc thần)
2. Cưu bàn trà (hung dữ)
3. Tỳ xá dà (ăn tinh khí)
4. Tiết lệ đa (quỷ đói)
5. Phú đơn na (hôi thối)
6. Dạ xoa
7. Quỷ truyền thống
8. La sát (ăn thịt người)

Tương Ưng Bộ kinh kể tôn giả Mục Kiền Liên thấy ở trên hư không có một bộ xương vừa đi, vừa kêu khóc. Vô số kên kên xúm nhau mổ rỉa. Đức phật dạy đó là một tên đồ tể giết trâu ở thành Vương Xá. Nó đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều ngàn năm, nay chỉ là dư báo làm con chim kên kên.

Có người ăn mới có người giết. Đồ tể giết trâu quả báo như thế, còn người ăn thịt thì sao, chúng ta nên suy nghĩ việc này.

Đó là quỷ, còn ma thì thế nào? Ma tiếng Phạn là Mara nghĩa là hay cướp mạng, làm chướng ngại, làm rối rắm, làm phá hoại, não hại

bốn loại ma

1) Phiền não ma: phiền não tham sân si, 10 triền, 10 sử hay làm tổn thương não hại nơi thân tâm nên gọi là ma; 
2) Ấm ma: vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra điều khổ não nên gọi là ma; 
3) Tử ma: Cái chết nó hay đứt dựt các căn (gân máu) sanh mạng của chúng ta
4) Tha hoá tự tại Thiên tử ma: tức ma Ba tuần ở từng trời thứ sáu của cõi dục giới hay phá rối bậc tu hành

Nên trong kính Lăng Nghiêm dạy một người phát nguyện mạnh mẽ thì 10 phương cõi ma chấn động. Vì chúng sợ ánh sáng và thánh thiện, và hay phá ý chí của những bậc xuất gia này, nay thấy sự phát tâm dõng mãnh của hành giả thì họ lo sợ và cung điện của họ lay chuyển.

Ngạ quỷquỷ thần là khác nhau. Quỷ là đọa lạc đói khát, còn quỷ thần như đại lực quỷ vương, a-tu-la… là những quỷ có phước báothần thông, sống ở cõi trời và hộ chánh pháp. Họ có thể dùng thần thông dời núi lấp sông. Có vị ẩn hiện biến hóa kém hơn và có vị có oai đức chủng loại vô lượng. Các chánh thần có phước đức ở núi cao, sông lớn hưởng nhân gian cúng dường. Quỷ có phước không đức như dạ xoa, la sát, lị mị… hưởng cúng máu huyết của các thịt tế thần.

Nói chung, ma quỷ là những chúng sanh đói khát, khổ đau và cô đơn. Vì thế ta phải làm thế nào để giúp cho ma quỷ tỉnh ra được và mở cổ họng ra được. Chúng ta phải có lòng từ, kiên nhẫn và phải có định lực.

Mỗi trưa khi chư tăng độ ngọ đều lấy ra khoảng trên bảy hạt cơm bỏ trong chén nước nhỏ để xuất sanh và tụng như sau:

Pháp lực khó nghĩ bàn
Bảy hạt khắp mười phương
Cúng dường khắp tất cả
Từ bi không chướng ngại.

Đồng không quỷ mẹ con
Đại bàn kim sí điểu
Tất cả đều no đủ.
Án, độ lợi ích toá ha

Tất cả chúng quỷ thần
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm nay biến khắp mười phương
Quỷ thần đều no đủ
Nhờ nương pháp nhiệm mầu.
Án mục lục lăng toá ha

Ít nhất chỉ bảy hạt cơm cho quỷ đói thôi, nhưng đó lại có thể là thức ăn cho tất cả chúng sanh. Lời tụng kinh cảnh tỉnh Phật pháp thấm đượm trong từng hạt cơm đó, với lòng mong muốn khiến các loại đói khát sớm thoát kiếp đọa lạc. Đó là lòng thương không ngằn mé, không bờ bến. Chúng ta biết rằng hễ có tình thương thì cái gì cũng giải quyết được hết, mà không có tình thương thì cái gì cũng giới hạn hết.

Cầu nguyện cho tất cả vong hồn đoản tử, chết bờ, chết bụi, té sông, rớt giếng, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, mười hai loại cô hồn và các loài quỷ kể trên sớm bỏ đường mê sanh về bến giác.








Ý kiến bạn đọc
28 Tháng Tư 201905:11
Khách
Cảm ơn Ni sư. Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188421)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43691)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 24982)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30777)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 20997)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38699)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27321)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31059)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33065)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23936)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16950)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20476)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31881)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18059)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20501)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26980)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 17999)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25516)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26596)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36528)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28022)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27253)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30290)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37032)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37201)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23836)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32253)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55096)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36845)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27538)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28272)
Công Phu Khuya
(Xem: 37911)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25372)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24115)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11202)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14474)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10599)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant