(THE WHEEL OF LIFE)
Thích Nữ Giới Hương
VÒNG KHỔ
6/ NGẠ QUỶ
Ngạ quỷ cũng là một trong vô số các loài chúng sanh trong vũ trụ này. Loài chúng sanh này có sự thọ dụng cảnh giới thuần khổ và bị đói khát liên tục. Nguyên nhân căn bản là do những chúng sanh này khi sanh tiền tâm chứa đầy những ý niệm tham lam, bỏn xẻn, không thích làm những việc lành, bố thí, cúng dường, sau khi chết đọa vào cảnh giới ngạ quỷ.
Quỷ thường chịu hai báo chướng:
1) Nội chướng: Cổ như cây kim, miệng như ngọn đuốc, bụng to như cái trống và toàn lửa, rất khó uống ăn. Đây là quả báo của những tâm hồn khô khan, bỏn sẻn không biết bố thí. Có quỷ ăn được nhưng thức ăn vào bụng liền biến thành gươm đao, đâm lại vào da thịt mình. Đây là vì đã bố thí với độc tâm hoặc ác khẩu.
Buổi chiều là giờ ăn của quỷ,[22] nên trong chùa khuyên tránh ăn chiều tối. Nếu có ăn thì xem đó như dược thực (thuốc để chữa bịnh đói khát, khô gầy) và tránh đừng khua đũa bát khiến quỷ thấy sự ăn uống, vì thèm khát miệng phực ra lửa.
Như ngài Mục Kiền Liên dâng cơm cho mẹ. Bà Thanh Đề đói quá, một tay bốc ăn, một tay che, sợ quỷ khác giành ăn. Nhưng cơm vừa đưa đến miệng liền hoá than hồng. Bà đói khát cùng cực mà không thể thọ dụng thức ăn được.
2) Ngoại chướng: Quỷ ở trong cảnh lửa hoặc máu mủ, bị dao đâm gậy đánh liên tục. Dòng sông đối với quỷ nếu không là máu mủ thì cũng khô cạn toàn là cát nóng. Có ngạ quỷ ở trong sông nước cả ngàn năm mà không sao hớp được một ngụm cho đỡ khát, chỉ thấy toàn sạn cát nóng. Cảnh trăng thanh gió mát thì do nghiệp báo quỷ thấy thành mặt trời nóng bức và ngược lại. Cây trĩu đầy quả thì thấy khô cằn héo hon không có trái nào và ngược lại.
Quỷ có bốn loại:
1/ Có phước: nên được ăn uống nhiều: a) Có thế lực lớn, cung điện trang nghiêm; b) Trông mong thờ cúng, đi trên hư không hoặc ở nhà xưa của mình hoặc ở mộ địa được bà con cúng (vì trước có bố thí); c) Ăn đờm dãi, phân uế và các thứ thiu thối.
2/ Ít phước: được ăn chút ít: a) Lông kim: tự đâm, đâm thân mình, đau đớn cuồng chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ bẩn; b) Lông thối: Cào vốc nhổ lông vì mùi hôi thối khiến rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu mới được ăn chút nhơ bẩn; c) Bướu lớn: Nhức nhối, chảy mủ máu hôi thối, bốc lấy ăn cho đỡ đói.
3/ Không phước: Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy: a) Miệng thối; b) Toàn thân là lửa như cây đuốc; c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.
Có rất nhiều quỷ như:
1.
Quỷ bị vạc nước sôi nung nấu (làm nghề sát sanh hoặc
có nợ không trả mà còn chống cự)
2.
Miệng
nhỏ như trôn kim
3.
Ăn
đồ mửa
4.
Ăn
phân
5.
Ăn
lửa
6.
Ăn
hơi
7.
Ăn
pháp (xưa kia nói pháp cầu lợi, nay đói khát, chỉ nhờ
nghe pháp mà mạng được tồn tại)
8.
Khô
khan thèm nước uống
9.
Hy
vọng trông mong bà con cúng vái (buôn bán dối trá lấy vật
của người)
10.
Ăn
đồ khạc nhổ (đã đem đồ bất tịnh cúng tăng)
11.
Ăn
tràng hoa (đã ăn trộm hoa của tam bảo)
12.
Ăn
máu (hay sát sanh)
13.
Ăn
thịt
14.
Ăn
nhang (hay ngửi và trộm nhang của chùa)
15.
Đi
nhanh, lửa cháy đốt thân
16.
Mỗi
lông trong mình đều tuôn lửa
17.
Hắc
ám: ở chỗ tối tăm có rắn cắn mổ (xưa kia vì mưu
cầu tiền bạc mà vu oan)
18.
Đại
lực thần thông nhưng chịu nhiều khổ não (ăn trộm
của người này, đem cho người khác)
19.
Lúc
nào cũng có cảm giác bị phừng cháy (giết người, cướp
của)
20.
Rình
con nít đại tiện, tiểu tiện để ăn hơi khí bất tịnh
21.
Dâm
dục (quyến rũ người làm việc này để lấy tiền sinh
lợi như tú bà tức chủ chứa gái)
22.
Ở
cồn biển (do lừa gạt người bịnh lấy tiền)
23.
Cầm
gậy hầu (làm quan nịnh vua tạo ác)
24.
Ăn
thịt con nít
25.
Ăn
tinh khí người
26.
La
sát (sát sanh)
27.
Ăn
lửa (tham ăn vật của tăng và Tam Bảo)
28.
Ở
các đường hẻm ăn đồ bất tịnh
29.
Ăn
gió (ưa hứa xuông, rồi không làm)
30.
Ăn
than (hành hạ tội nhân không cho ăn uống)
31.
Ăn
chất độc
32.
Ở
cánh đồng
33.
Ăn
tro nóng, chỗ thiêu thây người chết
34.
Ở
dưới gốc cây (người trồng cây để bố thí, mình ác
tâm chặt đi)
35.
Ở
các nẻo đường giao thông (bóc lột khách đi đường)
36.
Mara:
Ma quỷ phá hoại người tu hành
Trong Ngạ Quỷ sự (kinh Petakhatha) liệt kê tên và hình tướng của các quỷ như:
1.
Atthisankhalika: Chỉ có bộ xương bay trong hư không khóc la thảm
thiết, chim đuổi theo mổ vào những kẽ xương
2.
Mainsapesi:
Quỷ hình như khối thịt bị chim mổ xẻ (sát sanh
làm kế sanh nhai)
3.
Mainsapinda:
Quỷ hình như cục thịt (lúc sống làm thợ săn)
4.
Vicchavi:
thịt đỏ trùng rúc rỉa
5.
Asloma:
Lông như lưỡi dao nhọn bay lên, bay xuống đâm vào
thân
6.
Sattiloma:
Lưỡi kiếm bay lên, bay xuống đâm vào thân
7.
Usuloma:
Mũi tên lên xuống
8.
Suciloma:
kim lên xuống (đã dùng sắt nhọn đâm thúc ngựa,
bò, trâu chạy nhanh)
9.
Cumbhanda:
Ngọc hành thật to không ngồi được, cứ phải đi,
chim mổ rỉa (xử oan người để đòi hối lộ)
10.
Gidhakhadi:
Ăn ở trong phân (đem đồ bất tịnh cúng dường
tăng ni)
11.
Okilini:
Than nóng xối thân
12.
Ansakabandha:
Quỷ không đầu, mắt mũi miệng ở giữa ngực
(làm nghề đao phủ)
13.
Pabbazila:
thân lửa (xuất gia phá giới)
Những
quỷ
kể trên đã phải trả quả trong địa ngục, nay chịu
dư báo trong 10 kiếp đến 500 kiếp. Trai tăng hồi hướng phước
báo có thể siêu thoát.
14.
Vantasa:
Lông tóc xồm xoàm, chân tay cong queo, bụng to phềnh,
răng lởm chởm, chân hôi thối, ghẻ lở, ăn đồ khạc nhổ,
ở chỗ dơ bẩn (do xả bẩn, nhổ bẩn trên nền chùa)
15.
Xumpa:
Bụng phệ, mắt to bằng cái chén, răng bằng lưỡi cuốc,
tóc phết gót, đầu to hơn thân, hôi thối tanh nồng, ăn ròng
máu mủ và tử thi, nhưng càng ăn càng đói (cúng dường những
thứ cấm cho người tu)
16.
Gutha:
Ở gần cầu tiêu, ăn phân máu (xấc xược với người
tu, bỏn xẻn với cha mẹ)
17.
Aggisala:
Thân lửa bốc khói, đói khát mà không thể chết
(khinh báng tăng ni)
18.
Sucimlbkha:
Miệng nhỏ dài nhọn như cây kim, thân to lớn, trọn
đời đói khát ở rừng sâu (keo rít để cha mẹ đói khát
hoặc đến phá hoa, lá, vườn ruộng nhà chùa)
19.
Xanhaji:
Uống thì nước hoá lửa, ăn thì món ăn thành lửa
20.
Nijjha:
Miệng mọc đuôi dài hôi thối, chẳng bao giờ ăn uống
(ác khẩu với tăng ni, chế giễu người tàn tật, ly gián
người giới hạnh)
21.
Sabbanka:
Mình đầy ghẻ lở, ruồi nhặng bu khắp. Đói quá
lấy móng tay nhọn như dao tự móc thịt ăn. Vừa ăn, vừa
khóc, càng ăn càng đói. Loài quỷ này rất nhiều ở các thung
lũng, núi non và cồn bãi. (bất hiếu cha mẹ, phản bội ân
nhân)
22.
Pappanka:
thịt cứng như đất, lửa cháy đỏ, đói khát cả
triệu năm ở trên (chửi oan người đức hạnh)
23.
Ajagara:
Thân dài như con trăn, mình lớn bằng con voi, nhiều
đầu… khắp mình lửa cháy, đói khát trường kỳ, ngày đêm
kêu khóc. Ở núi rừng cồn bãi có rất nhiều loài này (hung
dữ mắng chửi cha mẹ và những bậc đức hạnh)
24.
Vemanika:
Nửa tháng thọ vui như cõi trời. Nửa tháng thọ khổ
như ở địa ngục tra khảo chúng sanh. Đói khát đau khổ vô
cùng (si mê nên ai rủ làm ác thì làm ác. Ai rủ làm phước
thì làm phước)
25.
Mahiddhika:
Thân đẹp như Thiên Tử thần thông, có thần thông
bay trong hư không, y phục toàn ngọc báu nhưng thân thể hôi
thối, đói khát cả vạn năm. Món ăn cứ đặt vào miệng
liền biến thành sắt nóng nung đỏ, cháy xém mồm miệng ruột
gan (xuất gia, tà mạng, cầu danh lợi, phá giới)
26.
Ahi:
Mình rắn đầu người. Lớn như trái núi, giãy dụa khóc
la, sống lâu trong rừng núi (sân giận phá chùa am)
27.
Nimygga:
Cứ phải cắm đầu xuống hầm phân, ăn đầy bụng
mới trồi lên được, rồi lại cắm đầu xuống cứ thế
trọn đời (tà dâm để thống khổ cho vợ con. Tội ở địa
ngục, nay là dư báo)
28.
Sukara:
Đầu heo, miệng lở thối (ác khẩu)
29.
Manguhi:
Lác, cùi, hôi thối, trôi nổi trong hư không, diều
hâu mổ cắn (mưu mô bóc lột người)
30.
Chataka:
Không quần áo, không ăn uống, sống lâu 90 kiếp. Giống
quỷ này rất đông (do khi sống không kính ngôi Tam Bảo)
31.
Surruta:
Ban ngày cầm buá đập nhau bể sọ, sưng nát mình mẩy.
ban đêm lửa cháy toàn thân. Đến sáng lửa tắt, lại cầm
búa đập nhau. (buông lung uống rượu, chơi chọi trâu, chọi
gà…)
Từ Bi Sám Pháp dạy:
1.
Mỗi bên nách đều có vành sắt nóng đốt thân cháy rực
(sadi chia bánh cúng chúng, ăn trộm hai chiếc kẹp nách)
2.
Trên
vai có bình nước sôi, tự tay lấy gáo múc xối trên
đầu, đau đớn than khóc (Duy na nấu sữa nhưng không chia đều.
Đợi khách tăng đi rồi mới chia cho chúng trong chùa. Những
tội báo trên đều là hoa báo. Quả ở địa ngục).
Kinh Địa Tạng: Các quỷ vương có các hình tướng và tánh khí như mắt ác, ăn thai trứng, hành hình, ác độc, đa ác, đại tránh, huyết hổ, xích hổ, tán vương, phi thân, điện quang, lang nha, ăn thú vật, đội đá, chủ hao, chủ họa, chủ phước, chủ tài, chủ súc, chủ cầm, chủ mị, chủ sản, chủ tật, chủ mạng, chủ hiểm, ba mắt, bốn mắt, năm mắt, kỳ lợi thất, đại kỳ lợi thất, kỳ lợi xoa, đại kỳ lợi xoa, a na tra và đại a na tra.
Có bốn Thiên vương thống lãnh tám bộ quỷ thần:
1.
Càn thát bà (nhạc thần)
2.
Cưu
bàn trà (hung dữ)
3.
Tỳ
xá dà (ăn tinh khí)
4.
Tiết
lệ đa (quỷ đói)
5.
Phú
đơn na (hôi thối)
6.
Dạ
xoa
7.
Quỷ
truyền thống
8.
La
sát (ăn thịt người)
Tương Ưng Bộ kinh kể tôn giả Mục Kiền Liên thấy ở trên hư không có một bộ xương vừa đi, vừa kêu khóc. Vô số kên kên xúm nhau mổ rỉa. Đức phật dạy đó là một tên đồ tể giết trâu ở thành Vương Xá. Nó đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều ngàn năm, nay chỉ là dư báo làm con chim kên kên.
Có người ăn mới có người giết. Đồ tể giết trâu quả báo như thế, còn người ăn thịt thì sao, chúng ta nên suy nghĩ việc này.
Đó là quỷ, còn ma thì thế nào? Ma tiếng Phạn là Mara nghĩa là hay cướp mạng, làm chướng ngại, làm rối rắm, làm phá hoại, não hại
Có bốn loại ma:
1)
Phiền não ma: phiền não tham sân si, 10 triền, 10 sử hay làm
tổn thương não hại nơi thân tâm nên gọi là ma;
2)
Ấm
ma: vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra điều
khổ não nên gọi là ma;
3)
Tử
ma: Cái chết nó hay đứt dựt các căn (gân máu) sanh mạng
của chúng ta;
4)
Tha
hoá tự tại Thiên tử ma: tức ma Ba tuần ở từng trời
thứ sáu của cõi dục giới hay phá rối bậc tu hành.
Nên trong kính Lăng Nghiêm dạy một người phát nguyện mạnh mẽ thì 10 phương cõi ma chấn động. Vì chúng sợ ánh sáng và thánh thiện, và hay phá ý chí của những bậc xuất gia này, nay thấy sự phát tâm dõng mãnh của hành giả thì họ lo sợ và cung điện của họ lay chuyển.
Ngạ quỷ và quỷ thần là khác nhau. Quỷ là đọa lạc đói khát, còn quỷ thần như đại lực quỷ vương, a-tu-la… là những quỷ có phước báo và thần thông, sống ở cõi trời và hộ chánh pháp. Họ có thể dùng thần thông dời núi lấp sông. Có vị ẩn hiện biến hóa kém hơn và có vị có oai đức chủng loại vô lượng. Các chánh thần có phước đức ở núi cao, sông lớn hưởng nhân gian cúng dường. Quỷ có phước không đức như dạ xoa, la sát, lị mị… hưởng cúng máu huyết của các thịt tế thần.
Nói chung, ma quỷ là những chúng sanh đói khát, khổ đau và cô đơn. Vì thế ta phải làm thế nào để giúp cho ma quỷ tỉnh ra được và mở cổ họng ra được. Chúng ta phải có lòng từ, kiên nhẫn và phải có định lực.
Mỗi trưa khi chư tăng độ ngọ đều lấy ra khoảng trên bảy hạt cơm bỏ trong chén nước nhỏ để xuất sanh và tụng như sau:
Pháp
lực khó nghĩ bàn
Bảy
hạt
khắp mười phương
Cúng
dường
khắp tất cả
Từ
bi
không chướng ngại.
Đồng
không quỷ mẹ con
Đại
bàn
kim sí điểu
Tất
cả
đều no đủ.
Án,
độ
lợi ích toá ha
Tất
cả chúng quỷ thần
Tôi
nay
nguyện cúng dường
Cơm
nay
biến khắp mười phương
Quỷ
thần
đều no đủ
Nhờ
nương
pháp nhiệm mầu.
Án
mục
lục lăng toá ha
Ít nhất chỉ bảy hạt cơm cho quỷ đói thôi, nhưng đó lại có thể là thức ăn cho tất cả chúng sanh. Lời tụng kinh cảnh tỉnh Phật pháp thấm đượm trong từng hạt cơm đó, với lòng mong muốn khiến các loại đói khát sớm thoát kiếp đọa lạc. Đó là lòng thương không ngằn mé, không bờ bến. Chúng ta biết rằng hễ có tình thương thì cái gì cũng giải quyết được hết, mà không có tình thương thì cái gì cũng giới hạn hết.
Cầu nguyện cho tất cả vong hồn đoản tử, chết bờ, chết bụi, té sông, rớt giếng, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, mười hai loại cô hồn và các loài quỷ kể trên sớm bỏ đường mê sanh về bến giác.