Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vua Milinda Vấn Đạo

26 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 24689)
Vua Milinda Vấn Đạo

VUA MILINDA VẤN ĐẠO
Một bản thâu gọn quyển "Milinda Panha"
Bản Anh ngữ: Tỳ Kheo Pesala - Bản Việt ngữ: Cư sĩ Liễu Pháp

1. Lời Tựa của Alex Wayman, Chủ Bút “Buddhist Tradition Series”:

Cuốn “Vua Milinda Vấn Đạo”, được Tỳ Kheo Pesala thâu gọn ở đây với một sự trình bày Phật Pháp cẩn trọng trong suốt tác phẩm Phật học đáng lưu ý này. Công trình dịch thuật toàn diện cuốn Milindapañha vẫn còn lưu giữ trong bộ XXXV và XXXVI của tuyển tập “Sacred Books of the East”. Bản dịch xưa cũ này (xuất bản năm 1890 và 1894), mặc dầu được dịch rất thông minh, đôi khi cũng bị cho là thiếu sót ở chỗ này, chỗ kia trong việc diễn dịch những danh từ Phật học chuyên môn. Ngoài ra, bản dịch toàn diện đó đã không có danh sách những từ ngữ Pāli như Tỳ Kheo Pesala đã có trong bản thâu gọn. Bản thâu gọn này nên được đón nhận như là một sự chấp nhận hết lòng và cấp nhật tác phẩm cổ điển lớn lao mà trong đó sự trình bày các vấn đề căn bản Phật Pháp vĩnh viễn vẫn là quan trọng. Chủ Bút tuyển tập Buddhist Tradition Series rất vui lòng tuyển công trình thâu gọn của Tỳ Kheo Pesala vào tuyển tập này.

 Alex Wayman - New York City, May 24, 1990 
2. Lời Tựa của Đại Đức Hammalawa Saddhātissa:

Milindapañha là một cuốn sách Pāli viết vào khoảng thế kỷ thứ I trước Tây lịch. Vua Milinda, một vị vua xứ Bactria, trị vì miền đông-bắc Ấn Độ, đã gặp một vị sư tên là Nāgasena và nhà vua đặt một số câu hỏi về triết lý, tâm lýđạo đức của Phật Giáo
Tôi đoán chừng rằng cuộc tranh luận đã được diễn ra bằng tiếng Hy Lạp gốc xứ Bactria nhưng sau đó được dịch ra tiếng Pāli và Sanskrit.

Cuốn sách Pāli nổi tiếng này, với nhan đề Milinda Pañha hay là Những Câu Hỏi Câu Của Vua Milinda, đã được dịch ra Anh ngữ hai lần: năm 1890 và năm 1969. Cả hai bản dịch đều đầy đủ tính chất văn học và nhiều chỗ đã được dịch sát nghĩa theo nguyên văn, vì thế nên các bản dịch đó phần lớn là dành riêng cho những học giả. Tuy nhiên, tác phẩm này (của Tỳ Kheo Pesala) thì không sát nguyên văn mà là một bản dịch thoát làm nên một bản thâu gọn và nhắm vào độc giả thích đi tắt hơn là đi đường dài, bất kể rằng con đường dài có lẽ sẽ rất đẹp.

Cấu trúc của sách vẫn được giữ như nguyên bản, nhưng trong nhiều trường hợp số thí dụ ví von, để vạch rõ quan điểm, đã được giảm bớt.

Tác giả, Đại Đức Pesala, là một vị sư Phật Giáo đã tu học ở Miến Điện và Thái Lan mà kiến thức tiếng Pāli đã giúp ngài khảo sát những chỗ mơ hồ, không rõ rệt trong bản dịch để biên soạn một bản thâu gọn súc tích, dễ đọc với một thứ Anh ngữ tân tiến, tao nhã, trong khi kiến thức Phật pháp của ngài đã giúp làm sáng tỏ vài ý tưởng mập mờ.

Cuốn sách này chắc chắn sẽ đạt được mục đích như đã chủ định bằng sự trình bày một cách đơn giản tác phẩm gốc. 

3. Sơ lược về tiểu sử Đại Đức Pesala:

Đại Đức Pesala là một người Anh, thọ giới Tỳ kheo năm 1979 với Ngài Mahāsi Sayādaw của Miến Điện khi Ngài Mahāsi đang trên đường thi hành sứ mạng giảng dạy Thiền Minh Sát tại Anh Quốc.
Đại Đức đã viếng thăm Miến Điện ba lần để thực tập Thiền Minh Sát theo phương pháp của Ngài Mahāsi Sayadaw. Đại Đức cũng đã trải qua 18 tháng ở một tu viện trong rừng miền đông-bắc Thái Lan để tu học theo truyền thống của Ngài Thiền Sư Achaan Chah. 
Sau khi trở về Anh Quốc, Đại Đức làm việc gần gũi với Ngài Hammalawa Saddhātissa để giúp soạn thảo một số tác phẩm, như là “A Buddhist’s Manual”, “Pāli Literature of South-East Asia” và “Abhidhammatthāvibhāvinī-tīkā.” (*V: Đây là quyển phụ chú giải cho cuốn Abhidhamma, nghĩa là chú giải cho Abhidhammattha Sangaha; tīkā: phụ chú giải; Abhidhammatthavibhāvinī: Exposition of The Topics of Abhidhamma, being a commentary to Anuruddha’s Summary of Abhidhamma).
Đại Đức cũng hợp tác chặt chẻ với Ngài Saddhātissa để soạn và hiệu đính một tuyển tập sưu tầm toàn diện các tác phẩm cả đời của Ngài Mahā-Thera, dưới nhan đề “Facets of Buddhism”; bộ sưu tầm này dành cho World Buddhist Foundation, một cơ quan được thiết lập để quảng bá kinh sách Phật Giáo.
Đại Đức cũng được mời đến Tích Lan (Sri Lanka) để giúp Ngài Balangoda Ānanda Maitreya Mahānāyaka Thera đưa vào máy điện toán một bản dịch các Ngũ Bộ Kinh Pāli ( Nikāyas) do Ngài Mahānāyaka Thera soạn, và đây là một nguồn sưu tầm có giá trị cho các học giả Phật Giáo

4. Lời Giới Thiệu về Nguồn Gốc cuốn Milinda Pañha:

Cuốn Milinda Pañha là một cuốn sách cổ được Phật Tử rất tôn trọng và quả là được sùng kính đến độ được người Miến Điện đưa vào Tam Tạng Pāli. Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Giáo Sư T.W. Rhys Davids, nhà phiên dịch sách Pāli có khả năng bậc nhất, xếp Milinda Pañha vào hạng rất cao. Giáo Sư nói: “Tôi dám nghĩ rằng cuốn Những Câu Hỏi Của Vua Milinda phải là một tác phẩm văn xuôi tuyệt tác của Ấn Độ; và trên phương diện văn học, đây quả là cuốn sách hay nhất xưa nay so với những sách cùng một thể loại, bất kể đã xuất phát ở một nước nào.”
Văn phong của cuốn Milinda Pañha rất giống với lối văn đối thoại của nhà hiền triết Plato, trong đó ngài Nāgasena đóng vai Socrates và theo quan điểm Phật Giáo thì ngài Nāgasena trội hẳn hơn vua Milinda nhờ cách lý luận có cơ sở vững chắc và những ví dụ so sánh thích đáng. Tác giả cuốn Milinda Pañha không ai biết, nhưng hầu như chắc chắntác giả đã sống ở cực đông bắc của Ấn Độ. Điều này được hỗ trợ bởi những dữ kiện về vua Menander, một vị vua xứ Bactria, được nhận dạng như là vua Milinda trong sách này. Người ta biết được nhiều dữ kiện về vua Menander như là nhiều đồng tiền kim khí của vua Menander đã được tìm thấy ở một vùng rộng lớn miền bắc Ấn Độ, về phía cực tây như Kabul, về phía cực đông như Mathura và cực bắc như Kashmir. Vua Menander đôi khi được hình dung như là một người còn trẻ và những lần khác như là một người rất già… Sách xuất bản về kho tàng của Mir Zakah xác nhận rằng vua Menander đã cai trị Ghazni và vùng lân cận là thung lũng Kabul (*V: thuộc Afghanistan bây giờ), ngoài ra vua cũng chiếm đóng các vùng Hazara và Swat Valley (*V: thuộc Pakistan bây giờ). Vua Menander là một vị vua Hy Lạp trị vì xứ Bactria, một thuộc địa của Hy Lạp do Đại Đế Alexander tạo nên. Vua có lẽ đã trị vì từ năm 150 đến năm 110 trước Tây lịch (như vậy cuộc tranh luận giữa vua Milinda và vị sư Nāgasena đã diễn ra không quá 400 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn)…
Theo các dữ kiện còn lại từ thời đó, vua Menander sinh ra ở xứ Bactria, khôn lớn ở Ariana (thung lũng Kabul), và trong những năm đầu trị vì, vua đã bành trướng lãnh thổ vương quốc đến thung lũng Indus và xa hơn nữa, có lẽ về sau dựng nên kinh đô ở Sāgala. Không giống như Bactria là nơi bị ảnh hưởng lớn của văn hóa Hy Lạp, những vùng bành trướng mới đã chịu ảnh hưởng của Phật Giáo. Vua Menander, tuy được giáo dục trong truyền thống Hy Lạp, đã tiếp xúc trực tiếp với Phật Giáo, và chắc chắn là vua thường hay gặp các vị sư Phật Giáo trong vương quốc. Mặc dầu là vậy, dường như cũng không chắc chắn là nhà vua có đủ kiến thức về giáo pháp để tranh luận như đã thấy trong sách; trong sách vua Milinda đã được mô tả như là người rất thông hiểu giáo pháp. Quan điểm của tôi (Tỳ Kheo Pesala) là tác giả (viết cuốn Milindapañha) có gặp gở vua Menander và có lẽ đã dựa vào cuộc đối thoại được kể lại và dùng kiến thức riêng của mình để viết dài hơn về cuộc tranh luận. Giả thiết này nhận được sự tán đồng từ các bản dịch Trung Hoa. Các bản dịch Trung Hoa (có ít nhất ba bản) chỉ gồm có ba phần đầu và gần giống như trong bản Pāli về các câu hỏi, tuy nhiên khác biệt về phần giới thiệu nguồn gốc…

5. So sánh với các bản dịch Trung Hoa:

Khi chuyển tự bản tiếng Pāli thập niên1860, V.Trenchner chỉ rõ rằng bản nguyên văn Milindapañha chắc chắn đã viết bằng tiếng Sanskrit. Lý do là bản văn bắt đầu bằng những chữ “Tam yathā nusuyatā” (Được truyền tụng lại như vầy) thay vì theo mẫu mực Pāli, thì phải là “Evam me sutam” (Tôi nghe như vầy). Điều này cũng được xác nhận qua bản dịch Trung Hoa, mặc dầu hiển nhiên là cùng nguồn gốc, nhưng vẫn có một số điểm khác biệt dễ thấy:
5.1. Những bản dịch Trung Hoa có ba phần đầu tương đồng với bản Pāli và ngụ ý rằng bốn phần sau đã được thêm dần vào về sau (4 phần đó là: Những trường hợp khó xử, Một vấn đề được giải quyết bằng suy luận, Tu khổ hạnh và Những ví dụ để so sánh).
5.2. Bản văn Trung Hoa lấy tên của vị Tỳ Kheo làm nhan đề: “Kinh Na-Tiên Tỳ Kheo” (Nāgasena-bhikshusūtra: kinh tỳ kheo Nāgasena). Bản văn Pāli thì lấy tên nhà vua làm nhan đề: “Milindapañha” – “Những câu hỏi của Milinda”.
5.3. Bản văn Pāli có 12 câu hỏi nhiều hơn (bản Trung Hoa).
5.4. Chuyện về tiền kiếp của Nāgasena và Milinda đều khác biệt.
5.5. Bản dịch Trung Hoa không hề nhắc đến Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) trong khi Vi Diệu Pháp thường được nhắc đến trong bản Pāli.
5.6. Về các Phẩm Trợ Đạo (Bodhipakkhiya-dhammā), dịch giả bản Trung Hoa đã sai về nhiều từ ngữ, chứng tỏ dịch giả đã không quen thuộc với kinh sách Pāli.
5.7. Bản Pāli nói rằng súc vậtlý luận nhưng không có trí tuệ; bản Trung Hoa nói súc vậttrí tuệ nhưng tâm (hearts) của chúng thì khác biệt (*V: không rõ ở đây tâm - hearts - có nghĩa gì? và khác biệt như thế nào?). 
Mặc dầu có nhiều điểm hơi khác biệt giữa hai bản văn, sự liên hệ chặt chẻ giữa những ví dụ để làm sáng tỏ những từ ngữ được dùng và thứ tự các câu hỏi đã làm cho chúng ta tin chắc rằng hai bản dịch đều xuất phát từ bản văn gốc xưa cũ (có lẽ bằng chữ Sanskrit). Nhưng chúng ta nên thận trọng khi kết luận bản nào là trung thực hơn. Tỳ Kheo Thích Minh Châu (* tác giả cuốn Milindapañha and Nāgasenabhikshusūtra, A Comparative Study), đã tận lực chứng minh rằng bản văn gốc mà bản dịch Trung Hoa dựa vào còn xưa cũ hơn và Tỳ Kheo Thích Minh Châu xác định niên đại của bản văn gốc là khoảng thời gian không lâu sau khi Đức Phật nhập diệt; ngài viện dẫn lý do là bản văn đã không được xếp vào các tạng Kinh, Luật, Luận (Sutta, Vinaya, Abhidhamma) và Ngũ Bộ Kinh (Nikāyas); các tạng kinh điễn này chỉ được kết tập đầy đủ tại đại hội Kết tập Tam tạng lần thứ ba (Third Council). Nhưng mà vua Menander đã không được sinh ra cho đến 100 năm sau lần kết tập Tam Tạng này. (*V: Ngài Moggalliputta mở đại hội Kết tập Tam Tạng lần III vào năm Phật lịch 235, đời vua Asoka – xin xem dấu về chú thích dưới đây). Rõ rệt là bản gốc không sớm hơn thế kỷ I trước Tây lịch, và khoảng thời gian cách quảng trước khi các bản dịch xuất hiện, vào khoảng năm 400 sau Tây lịch, là một khoảng thời gian thật dài, đủ để cho nhiều sự thêm bớt, sửa đổi, thiếu sót có thể xẩy ra. 

6. Cách biên soạn bản gốc và bản thâu gọn:

Phần kết của sách có nói trọn bản gốc chia ra làm 6 Phần và 22 Chương, gồm 262 câu hỏi, không kể 42 câu hỏi đã không được truyền lại. Tuy nhiên các con số được liệt kê như vậy khó có thể được kiểm chứng. Có rất nhiều sự thiếu sót, khác biệt giữa các bản Pāli còn lại và có lẽ đó không phải là một điều lạ vì đây là một tác phẩm quả là rất cổ xưa.
Bây giờ với cuốn thâu gọn này thì chỉ có 237 câu hỏi. Khi đánh số các chương, tôi (Tỳ Kheo Pesala) đã theo thứ tự như nguyên bản Pāli, ngoại trừ một điều là gom 7 chương cuối vào chương 17. 
Trong ấn bản thâu gọn này, mặc dù vẫn theo cách biên soạn của nguyên bản Pāli, tôi đã loại bỏ một số lớn ví dụ và cô đọng lại những đoạn văn dài (hy vọng sẽ không làm hỏng đi vẻ đẹp của nguyên tác) để làm cho sách tương đối súc tích, ngắn gọn hơn, và như vậy sẽ dễ dàng hơn cho độc giả tây phương thường bận rộn. Đây là một bản thâu gọn, không phải một bản dịch, vì thế đây đó tôi đã gom vài đoạn văn thành một đoạn, để sách được ngắn gọn, tuy nhiên tôi cố gắng trung thành với ý hướng của tác giả là làm sáng tỏ Phật Phápgiải thích những điểm thường dễ bị hiểu lầm

7. Chú thích của người dịch Việt ngữ (*V): 

Đây là bản dịch cuốn “The Debate of King Milinda” của Bhikkku Pesala, xuất bản năm 1991 tại Delhi, Ấn Độ. Cuộc đối thoại về Phật Pháp giữa vua Milinda và Ngài Nāgasena được diễn ra bằng tiếng Hy Lạp gốc xứ Bactria rồi sau đó được viết ra bằng tiếng Pāli hoặc Sanskrit. Có nhiều bản khác nhau của cuốn Milindapañha được lan truyền qua Ấn Độ, Tích Lan…; các bản khác lại được truyền bá sang Trung Hoa, Tây Tạng… và được gọi là Nāgasena Tỳ Kheo Kinh (Nāgasena-bhikshusūtra). Riêng ở Trung Hoa đã có ba bản dịch khác nhau, vào thế kỷ III, IV và V. Hai cuốn Milinda Vấn Đạo và Nāgasena Tỳ Kheo Kinh có nhiều chi tiết khác nhau đáng quan tâm.
7.1. Cuốn Nāgasena Tỳ Kheo Kinh trong phần đầu quả quyết rằng vua Milinda chính là vị vua Menander. Không có sự quả quyết đó trong Milindapañha, tuy rằng vua Menander được nhận dạng là vua Milinda trong bản văn.
7.2. Một bản dịch tiểng Việt, “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, của dịch giả Cao Hữu Đính, xuất bản tại Việt Nam năm 1971 và tái bản tại Hoa kỳ năm 1999. Người viết Lời Giới Thiệu bản dịch này có viết: “Xét thấy phần đầu, tức duyên khởi của kinh “ Milindapañha” và của Na Tiên Tỳ Kheo Kinh, hai bên không giống nhau nên đạo hữu (Cao Hữu Đính) đã cho lướt qua, đợi tham cứu sau. Thay vào đó, ông viết một “Lời Nói Đầu” ghi lại tiểu sử vua Di Lan Đà và ngài Na Tiên, cùng với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ…” Bối cảnh lịch sử được mô tả ở đây, đã dựa vào các bản dịch Trung Hoa, có nhiều điểm khác với bối cảnh lịch sử viết trong cuốn Milindapañha tiếng Pāli mà tỳ kheo Pesala dựa vào để biên soạn bản thâu gọn bằng tiếng Anh. Điểm khác biệt chính là dịch giả Cao Hữu Đính, trong “ Lời Nói Đầu”, khẳng định như sau: “Theo sử liệu chắc thật thì vua Di Lan Đà (Milinda) trị vì từ năm 163 đến năm 150 trước Tây lịch”. Sách không nói rõ sử liệu nào hoặc xuất xứ từ đâu; điều này nếu đúng có nghĩa là vua Menander chỉ trị vì 13 năm và cuộc tranh luận của nhà vua Menander và ngài Nāgasena đã diễn ra vào khoảng thời gian đó. Thực ra, những năm trị vì của vua Menander chỉ được ước lượng (bởi học giả Lamotte) từ năm 163 đến năm 150 B.C. Các bản văn Pāli viết khác hẳn: vua Menander trị vì trong khoảng từ năm 150 dến năm 110 trước Tây lịch. Bà Rhys Davids, một dịch giả kinh điển Pāli nỗi tiếng, cũng cho là từ năm 150 đến năm 110 B.C. Tuy nhiên cả hai khoảng thời gian này đều khác với điều đã nói ở Phần Giới Thiệu trên đây là cuộc tranh luận xẩy ra khoảng 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Ngoài ra, chúng ta nên lưu ý đến ý kiến của Tỳ Kheo Thích Minh Châu về khoảng thời gian này như đã nói trên đây.
7.3. Một điểm quan trọng khác là các bản dịch Trung Hoa không nhắc đến Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) trong khi các bản Pāli thì thường nhắc đến Vi Diệu Pháp. Theo ngài Nārada Mahā Thera trong Lời Mở Đầu cuốn A Manual of Abhidhamma: “Vi Diệu Phápgiáo huấn cùng tột rốt ráo (paramattha desanā)…phân tích tỉ mỉ Danh và Sắc”. Nếu khôngkiến thức về Vi Diệu Pháp thì khó có thể giải thích các vấn đề khó hiểu trong Phật Pháp, ví dụ câu hỏi về linh hồn (soul, jīva), câu hỏi về tự ngã…cần phải có Vi Diệu Pháp để làm sáng tỏ vấn đề, phải hiểu liên hệ giữa Thân và Tâm, các tiến trình tư tưởng, các trạng thái tâm (tâm sở), lý Duyên Khởi, khái niệm Vô Ngã…, để hiểu tại sao Vi Diệu Pháp không chấp nhận có một linh hồn như là một thực thể đơn thuầntrường cửu. Ngoài ra, bản dịch của Cao Hữu Đính còn một số những thiếu sótđộc giả có thể đọc trong Lời Nói Đầu của H.T. Giới Nghiêm trong cuốn “Mi-Tiên Vấn Đáp” từ năm 1982 và do Tỳ Kheo Giới Đức hiệu đính năm 2003.
7.4. Dịch giả bản tiếng Việt mạn phép bỏ một ít chi tiết về bối cảnh lịch sử (kể cả một số địa danh xưa cũ nay đã thay đổi) nhận thấy không giúp ích và liên hệ đến nguồn gốc hoặc xuất xứ của bản văn Pāli. Thay vào đó, có phần giới thiệu sơ lược tiểu sử của Tỳ Kheo Pesala, người biên soạn bản thâu gọn bằng tiếng Anh. Cũng có một bản thâu gọn khác với nhiều khác biệt mà độc giảthể tham khảo, do tiến sĩ N.K.G. Mendis biên soạn, tiếng Anh, xuất bản năm 1993 tại Sri Lanka (do Buddhist Publications Society xuất bản). 
7.5. Độc giả sẽ nhận thấy, từ chương 8 (Những vấn đề khó xử) trở đi, văn thể cũng như không khí thảo luận đổi khác nhiều. Chúng ta không còn thấy những câu hỏi chuyên về triết lý, tâm lý do sự tò mò, thay vào đó là những đề tài thảo luận đi sâu vào Phật Pháp hơn. Vua Milinda đã trở thành đệ tử của ngài Nāgasena, học hỏi Tam Tạng, tu tập giữ giới như một Phật tử thuần thành. Vì thế các vấn đề đặt ra khó khăn hơn và cũng được giải đáp cặn kẽ, thâm sâu hơn. Nội dung và cách biên soạn sách Milindapañha được đánh giá rất cao; ở Miến Điện, sách đã được đưa vào Kinh Tạng (Sutta Pitaka), như là một phần của Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya, Miscellaneous Collection). 
7.6. Những chú thích của dịch giả bản tiếng Việt được cung cấp để làm rõ nghĩa một số từ ngữ, câu hay đoạn trích dẫn trong các câu trả lời, đề tựa... Chú thích được ghi với dấu * và in cùng trang hoặc gần với điểm cần chú thích. Ví dụ *V 1.4 là chú thích chương 1, câu hỏi số 4 của dịch giả bản tiếng Việt (V). Một số chú thích trong bản tiếng Anh cũng được dịch nguyên văn ra tiếng Việt nếu nhận thấy cần thiết. Ví dụ *E 1.9 là chú thích chương 1, câu hỏi số 9 của bản tiếng Anh (E: English). 

 
 Vua Milinda Vấn Đạo 

 Bản Thâu Gọn

 

Phần Mở Đầu:

Vua Milinda đang ở trong tỉnh Sāgala. Nhà vua rất thông thái về mỹ thuật và khoa học, có đầu óc thích quan sát, tìm hiểu. Nhà vua có tài tranh luận và không ai đã có thể giải quyết những nghi ngờ của nhà vua về những vấn đề trong lãnh vực tôn giáo. Nhà vua đã tìm hỏi những vị thầy nổi tiếng mà chẳng có ai có thể làm nhà vua thỏa mãn.
Assagutta, một trong nhiều vị A-la-hán sống ở vùng Himalayas, nhờ thần thông biết được sự nghi ngờ của nhà vua. Ngài triệu tập phiên họp lại để xem có ai có thể giải đáp cho nhà vua. Chẳng có người nào cả nên các vị này đã lên tầng trời thứ 33 để xin vị Trời Mahāsena sanh xuống làm một người để bảo vệ cho tôn giáo. Một trong những vị sư, Rohana, đồng ý đến Kajangalā nơi Nāgasena tái sanh và chờ ngài khôn lớn. Cha của đứa trẻ, vị bà la môn Sanuttara, cho đứa trẻ học ba kinh Vệ Đà; tuy nhiên, đứa trẻ, Nāgasena, tuyên bố rằng:
“Ba kinh Vệ Đà trống rỗng và như vỏ trấu trong đó chẳng có thực tại, chẳng có giá trị mà cũng chẳng có sự thực chủ yếu”.
Biết rằng đứa trẻ đã sẵn sàng, vị sư Rohana xuất hiệncha mẹ đứa trẻ đồng ý để con mình thành một sa-di. Và như thế, Nāgasena học Vi Diệu Pháp. Sau khi đã đạt được kiến thức toàn diện của bảy bộ trong tạng Vi Diệu Pháp, Nāgasena thọ giới Tỳ Kheo và Rohana gởi Nāgasena đến tu viện Vattaniya để học với ngài Assagutta. Trong khi trải qua mùa kiết hạ ở đó, Nāgasena được mời thuyết pháp cho một bà lão rất mộ đạo là người bảo trợ cho ngài Assagutta. Kết quả của thời pháp này là cả hai người, bà mộ đạo và Nāgasena, đều đạt được tuệ dhammacakkhu; đó là tuệ biết rằng bất cứ pháp nào có khởi đầu thì cũng có hoại diệt.
 Rồi sau đó Assagutta gởi Nāgasena đến ngài Dhammarakkhita tại Vườn Asoka ở Pātaliputta; tại nơi này, trong vòng ba tháng, Nāgasena thông thạo phần còn lại của Tam Tạng. Ngài Dhammarakkita nghiêm túc khuyên bảo học trò của mình rằng không nên bằng lòng với kiến thức chỉ từ kinh sách mà nên tu tập và ngay trong đêm đó người học trò cần mẫn Nāgasena đạt được quả vị A-la-hán. Rồi thì ngài Nāgasena đến cùng với các vị A-la-hán khác đang còn ở miền Himalayas. Đã hoàn thành học vấn, ngài Nāgasena nay sẳn sàng gặp gỡ bất cứ người nào để tranh luận.
Trong khi đó, vua Milinda tiếp tục theo đuổi con đường tìm hiểu tâm linh bằng cách đến thăm vị Tỳ Kheo Ayupāla tại tu viện Samkheyya và hỏi ngài tại sao các vị sư từ bỏ thế gian. Vị Tỳ Kheo trả lời: “Chính là để có thể sống đạo đứctâm linh tĩnh lặng”. Rồi thì nhà vua hỏi: “ Bạch ngài, có người cư sĩ nào sống như vậy không?”. Ngài Tỳ Kheo nhận rằng quả có những cư sĩ sống như vậy và nhà vua bắt bẻ lại:
 “Bạch ngài Àyupāla, như thế thì hầu hết con đường đi của ngài chẳng có ích gì. Phải là do quả của các tội đã phạm trong kiếp trước mà những người ẩn dật chối bỏ thế gianbó buộc ngay cả chính mình, tu theo lối khổ hạnh, như phải mặc quần áo vải thô, chỉ được ăn một bửa mỗi ngày, hoặc là không được nằm xuống để ngủ. Chẳng có đạo hạnh gì trong đó, chẳng có gì đáng khen trong những kiêng cữ như vậy, chẳng phải là đời sống đạo đức gì cả!” 
 Khi nhà vua nói như vậy, Tỳ Kheo Ayupāla im lặng, chẳng có lời nào để nói. Rồi thì năm trăm người Hy lạp gốc xứ Bactria tùy tùng của nhà vua nói rằng: “Vị Tỳ Kheo có học nhưng cũng thiếu tự tin, vì thế ngài không trả lời”. Với sự việc đó, nhà vua trả lời lớn tiếng: “Tất cả Ấn độ là một cái gì trống rỗng, giống như là vỏ trấu. Chẳng có ai có khả năng tranh luận với ta và xua tan những nghi ngờ của ta!”
Nhưng với lời này, những người Hy lạp gốc Bactria không nhúc nhích, vì thế nhà vua hỏi:
 “Vậy thì xin hỏi có vị thông thái nào khác có thể thảo luận với ta và xua tan các nghi ngờ của ta không?”
Rồi vị quan hầu cận Divamantiya nói:
 “Tâu Đại Đế, có một vị tên là Nāgasena, thông thái, phong cách dịu dàng, nhưng đầy dũng mãnh, có khả năng thảo luận với Bệ Hạ. Vị này đang ở tại tu viện Samkheyya, ngài nên đến đó để đặt các câu hỏi của ngài.”
Chỉ mới nghe nhắc qua tên Nāgasena, nhà vua đã trở nên lo lắng, thảng thốt báo động và tóc lông trong người dựng lên. Rồi nhà vua gởi sứ giả đi thông báo nhà vua sẽ đến, và được tháp tùng với năm trăm người Hy-Lạp gốc Bactria, nhà vua lên cỗ xe của mình và lên đường đi đến nơi Ngài Nāgasena đang ở. 

Xem Thêm:
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo, Cao Hữu Đính Việt dịch

Kinh Tỳ Kheo Na Tiên, Thiện Nhựt 
MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA) - Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo) - Tỳ kheo Giới Ðức hiệu đính, ấn bản 2003
Khung Cảnh Lịch Sử Quanh Bộ Kinh Milinda Panha của Phật Giáo, Trần Trúc Lâm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12053)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12381)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53062)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35491)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21399)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16849)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13132)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12535)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19578)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18656)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12319)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17197)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14617)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13844)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22883)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14558)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18348)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11945)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15854)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18425)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant