Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Niệm Ân Đức Tam Bảo

31 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8571)
8. Niệm Ân Đức Tam Bảo

CĂN BẢN PHẬT GIÁO
Bình Anson
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TL. 2005 - PL. 2549
 

Niệm Ân Đức Tam Bảo

Bình Anson

---*---

Hằng ngày, vào buổi sáng sớm và buổi tối, các Phật tử trong truyền thống Nam tông thường tụng các bài kinh văn căn bản, trong đó, có bài tụng về các ân đức Tam Bảo, Phật-Pháp-Tăng. Ở đây, xin mạo muội trình bày sơ lược về ý nghĩa các lời tán dương Tam Bảo đó, dựa theo một tập sách học tiếng Pàli của Tỳ-khưu Nguyệt Thiên Indacanda. 

*

Bắt đầu mỗi buổi lễ, chúng ta thường nghe tụng câu:

Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa

Trong đó, 

Namo tassa: Xin cung kính đến vị ấy.
bhagavato: đức Thế Tôn, đức Phá-ga-va.
arahato: bậc A-la-hán, Ứng Cúng.
sammà sambuddhassa: đấng Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác, Bậc Tự Giác Ngộ hoàn toàn, không ai chỉ dạy.
Nghĩa toàn câu: "Cung kính đến Ngài là đức Thế Tôn (Phá-ga-va), bậc A-la-hán (Ứng Cúng), đấng Chánh Biến Tri".

*

Tiếp theo, là các câu tụng về ân đức Tam Bảo như sau:

1) Ân đức Phật Bảo:

Itipi so Bhagavà Araham Sammàsambuddho Vijjàcaranasampanno Sugato Lokavidù Anuttaro Purisadammasàrathi Satthà devamanussànam Buddho Bhagavàti 

Itipi so: Thật vậy, vị ấy là ... 
Bhagavà: đức Thế Tôn.
Araham: người không còn ô nhiễm, bậc A-la-hán, bậc Ứng Cúng.
Sammàsambuddho: đấng Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác, Bậc Tự Giác Ngộ hoàn toàn, không ai chỉ dạy. 
Vijjàcaranasampanno: Minh Hạnh Túc, người có trí tuệđức hạnh thành tựu một cách trọn vẹn.
Sugato: bậc Thiện Thệ, vị đã ra đi một cách trọn vẹn, đã Niết-bàn.
Lokavidù: người hiểu biết rõ ràng về thế gian, Thế Gian Giải.
Anuttaro: không gì hơn được, Vô Thượng Sĩ.
Purisadammasàrathi: người có khả năng điều khiển, huấn luyện kẻ khác, Ðiều Ngự Trượng Phu.
Satthà devamanussànam: vị thầy của chư thiênloài người, Thiên Nhân Sư.
Buddho: bậc đã giác ngộ, đức Phật.
Bhagavà: Đức Thế Tôn.

Nghĩa toàn câu: "Thật vậy, bậc đáng kính trọng ấy là A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn."

Đây là đoạn văn rất thường gặp trong các bài kinh thuộc Đại Tạng Kinh do ngài Hòa thượng Thích Minh Châu dịch sang Việt ngữ. Đó cũng là 10 Danh hiệu của Đức Phật. Tuy nhiên, trong một vài kinh sách, chúng ta chỉ thấy đề cập đến 9 danh hiệu, đó là vì 2 danh hiệu Vô Thượng SĩÐiều Ngự Trượng Phu đôi khi được gộp chung thành một, như có giải thích trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo, Chương VII, của ngài Phật Âm (Buddhaghosa). 

Ngoài ra, trong nhiều kinh sách Bắc tông, có thấy thêm vào danh hiệu Như Lai, tạo ra 11 danh hiệu. Để có được con số 10 danh hiệu, có sách gộp chung Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu thành một, hay gộp chung PhậtThế Tôn thành một danh hiệu.

Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh đủ đầy,

Ðức ân Thiện Thệ cao dày,

Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân, 

Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu,

Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh,

Thiên Nhân Sư đấng cha lành, 

Phật Ðà toàn giác, Thế Tôn trong đời.

*

2) Ân đức Pháp Bảo:

Svàkkhàto bhagavato dhammo sanditthiko akàliko ehipassiko opanayiko paccattam veditabbo vinnùhìti 

Svàkkhàto: đã khéo được thuyết giảng.
bhagavato: của đức Thế Tôn.
dhammo: giáo pháp.
Svàkkhàto bhagavato dhammo: Pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết giảng
sanditthiko: hoàn toàn hiển nhiên, được thấy rõ ràng.
akàliko: không đợi thời gian, không bị chi phối bởi thời gian.
ehipassiko: hãy đến và hãy thấy, mời đến để thấy.
opanayiko: có khả năng hướng thượng, dẫn dắt về hướng thượng (Niết-bàn).
paccattam: tự cá nhân, riêng rẽ.
veditabbo: nên được hiểu biết.
vinnùhì: bởi các bậc trí tuệ.

Nghĩa toàn câu: "Pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết giảng, hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởi thời gian, hãy đến và hãy thấy, có khả năng dẫn dắt về hướng (Niết-bàn), và nên được hiểu biết tự cá nhân bởi các bậc trí tuệ."

Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châu dịch là "Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu."

Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:

Pháp vi diệu, cha lành khéo dạy,
Lìa danh ngôn, giác ngộ hiện tiền,

Vượt thời gian, chứng vô biên,

Sát na đại ngộ, hoát nhiên liễu tường,

Ðạo vô thượng, đến rồi thấy rõ,

Hướng thượng tâm, thoát ngõ vọng trần,

Trí nhân tự ngộ giả chân,

Diệu thường tịnh lạc, Pháp ân nhiệm mầu. 

*

3) Ân đức Tăng Bảo:

Supatipanno bhagavato sàvakasangho 
ujupatipanno bhagavato sàvakasangho

nàyapatipanno bhagavato sàvakasangho 

sàmìcipatipanno bhagavato sàvakasangho

yadidam cattàri purisayugàni atthapurisapuggalà 

esa bhagavato sàvakasangho

àhuneyyo pàhuneyyo dakkhineyyo anjalikaranìyo 

anuttaram punnakkhettam lokassàti 

Supatipanno: đã tu hành tốt đẹp trong thiện đạo (thiện hạnh)
bhagavato: của đức Thế Tôn.
sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử.
bhagavato sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử của đức Thế Tôn.
ujupatipanno: đã tu hành trong trực đạo (trực hạnh)
nàyapatipanno: đã tu hành trong chân đạo (như lý hạnh).
sàmìcipatipanno: đã tu hành trong chánh đạo (chân chánh hạnh).
yadidam: điều trên có nghĩa là thế này.
cattàri: bốn (số đếm).
purisayugàni: (bốn) cặp / đôi hạng người: Đạo quả Dự lưu, Đạo quả Nhất lai, Đạo quả Bất lai, Đạo quả A-la-hán (Đạo và Quả tính chung thành một đôi).
atthapurisapuggalà: tám hạng người, nếu tính đơn, đó là Đạo và Quả tách rời ra. 
esa: nhóm người ấy, nhóm người đã nói ở trên.
bhagavato: của đức Thế Tôn.
sàvakasangho: Tăng chúng đệ tử.
àhuneyyo: đáng được cung kính.
pàhuneyyo: đáng được thân cận.
dakkhineyyo: đáng được cúng dường.
anjalikaranìyo: đáng được chắp tay, đáng được lễ bái.
anuttaram: không gì hơn được, vô thượng.
punnakkhettam: nơi để gieo nhân phước báu, phước điền.
lokassà: của thế gian.

Nghĩa toàn câu: Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châu dịch là "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như lý hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chân Chánh hạnh; tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được thân cận, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay chào, là phước điền vô thượng ở trên đời."

Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:

Bậc diệu hạnh, thinh văn Thích Tử,
Bậc trực hạnh, pháp lữ thiền gia,

Bậc như lý hạnh, Tăng Già

Bậc chân chánh hạnh, dưới toà Thế Tôn,

Thành đạo quả bốn đôi, tám chúng,

Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm,

Cung nghinh kính lễ một niềm,

Thánh chúng vô thượng, phước điền thế gian.

*

Trì tụng, ghi nhớ và thông hiểu rõ ràng 3 câu tụng trên là một pháp hành căn bản nhưng rất quan trọng. Khi thông hiểu ý nghĩa, chúng ta tăng trưởng niềm tín thành nơi Tam Bảo. Khi ghi nhớ và trì tụng đều đặn, thường xuyên, chúng ta dưỡng nuôi sự định tâm.

Trong Tương Ưng Bộ 11.3, kinh Đầu Lá Cờ, Đức Phật khuyên các vị Tỳ-khưu khi hành thiền, sống độc cư trong rừng vắng, nên thường xuyên tụng niệmquán tưởng đến ân đức Tam Bảo qua các câu trên để giúp các vị ấy có thêm tự tin, không còn lo âu, sợ hãi. Ngài tóm tắt trong câu kệ:

"Này các vị Tỳ-khưu,
Trong rừng hay gốc cây,

Hay tại căn nhà trống,

Hãy niệm bậc Chánh Giác.

Các Ông có sợ hãi,

Sợ hãi sẽ tiêu diệt.

Nếu khôngniệm Phật,
Tối thượng chủ ở đời,

Và cũng là Ngưu vương,

Trong thế giới loài Người,

Vậy hãy tư niệm Pháp,

Hướng thượng, khéo tuyên thuyết.

Nếu khôngniệm Pháp,
Hướng thượng, khéo tuyên thuyết,

Vậy hãy tư niệm Tăng,

phước điền vô thượng.

Vậy này các Tỳ-khưu,
Như vậy tư niệm Phật,

niệm Pháp và Tăng,

Sợ hãi hay hoảng hốt,

Không bao giờ khởi lên".

Đức Phật cũng khuyên hàng đệ tử cư sĩ có những tùy niệm tương tự như thế. Trong Tăng Chi Bộ 11.12, Ngài dạy vị cưĐại Danh (Mahànàma) về 6 tùy niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí (Bố thí), và niệm chư Thiên. Về niệm Phật-Pháp-Tăng, Ngài nói:

--"Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Tam Bảo (Phật-Pháp-Tăng), tâm của vị ấy không bị tham ám ảnh, không bị sân ám ảnh, không bị si ám ảnh. Tâm của vị ấy được chánh trực nhờ duyên Tam Bảo. Vị Thánh đệ tử ấy, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân được khinh an, cảm giác được lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Này Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạt được bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt được vô sân với chúng sanh có sân, nhập được pháp lưu, tu tập tùy niệm Tam Bảo".

Trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo, Chương VII, ngài Phật Âm đề cập đến các lợi ích của pháp niệm ân đức Tam Bảo như sau:

-- "Khi vị hành giả chú tâm đến việc suy niệm đấng Giác Ngộ như vậy, suy niệm Chánh Pháp như vậy, suy niệm chư Thánh Tăng như vậy, vị ấy có lòng tôn kính đức Phật, tôn kính Giáo Pháp của Ngài, tôn kính chư Thánh Tăng đệ tử của Ngài. Vị ấy đạt đến sự viên mãn về đức tin, chánh niệm, trí tuệcông đức. Vị ấy có nhiều hạnh phúcan lạc, nhiếp phục được sự sợ hãi khủng bố, và có khả năng kham nhẫn, chịu đựng các khổ đau. Vị ấy có cảm giác như mình đang sống trước mặt đấng Đạo sư, đang sống trong Chánh Pháp, đang sống với các bậc Thánh Tăng. Trong khi an trú suy niệm những đức tính đặc biệt của Tam Bảo, thân thể của vị hành giả ấy trở thành một nơi đáng tôn trọng như một đền thờ. Tâm vị ấy hướng về chư Phật, hướng về Pháp vô thượng, hướng về chư Thánh Tăng. Hành giả ấy cảm thấy hổ thẹn và e sợ (tàm và quý) trước các ác pháp, và như thế giúp vị ấy không phạm giới. Nếu vị ấy không chứng đạt được quả vị cao thượng trong kiếp này, thì ít nhất, vị ấy cũng sẽ tái sinh vào một cảnh giới an lạc sau khi chết".

*

Đa số Phật tử Việt Nam chúng ta, thường không quen thuộc với các bài kinh tụng trong truyền thống Phật giáo Nam tông, có lẽ sẽ cảm thấy bỡ ngỡ, khó khăn khi bắt đầu tụng niệm các câu ân đức Tam Bảo trình bày ở trên. Tuy nhiên, nếu có dịp gần gũi với chư Tăng Nam tông và các cộng đồng Phật tử trong vùng Nam Á và Đông Nam Á như: Thái Lan, Cam-pu-chia, Lào, Miến Điện và Tích Lan, và nếu chúng ta thường xuyên tham dự các khóa tu thiền, dần dần, chúng ta sẽ quen nghe các câu tụng căn bản đó. Các bài tụng nầy đã được thu âm và quảng bá rộng rãi trên các trang web Phật Giáo của mạng Internet, qua các băng audio-cassette và đĩa CD; và điều đó sẽ giúp chúng ta học thuộc và tụng đọc dễ dàng hơn, nếu có quyết tâm học tập. 

Qua kinh nghiệm bản thân cũng như qua các trao đổi với các bạn thiền sinh khác, một khi chúng ta thông hiểu ý nghĩa và trì tụng ân đức Tam Bảo thuần thục đều đặn mỗi ngày, chúng ta sẽ thấy được nhiều lợi lạc do pháp hành tùy niệm đó mang đến cho sự hành thiền và làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần của mình, như Đức Phật đã thường khuyên dạy cho hàng đệ tử, khi Ngài còn tại thế.

Tháng 9-2004



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14697)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11756)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12705)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10266)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12004)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15222)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11020)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10465)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12412)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16364)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14251)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11723)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14736)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11980)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16762)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11522)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12674)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11287)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11999)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52002)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15408)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13923)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11397)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13127)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12728)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13170)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17843)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12400)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12593)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54133)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14361)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9877)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13769)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57869)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14438)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20068)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13724)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15344)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17438)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13276)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11880)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13447)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14626)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12446)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12123)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12036)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13255)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12500)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13617)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13298)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25508)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12156)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14496)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11811)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42022)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28268)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38733)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14679)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12664)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16211)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant