Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

An Trú Nơi Cô Tịch Là Thực Hành Của Một Bồ Tát

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 21713)
An Trú Nơi Cô Tịch Là Thực Hành Của Một Bồ Tát

AN TRÚ NƠI CÔ TỊCH
THỰC HÀNH CỦA MỘT BỒ TÁT

Dilgo Khyentse Rinpoche

Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt;
Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên;
Khi sự tỉnh giác trở nên trong trẻo hơn, niềm tin nơi Giáo Pháp tăng trưởng
An trú nơi cô tịch là thực hành của một Bồ Tát.

 

Khi bạn sống ở một nơi cô tịch, những cảm xúc tiêu cực của bạn dần dần giảm bớt, sự tự chủtiết chế của bạn tăng trưởng.

Chính Gyalse Thogme đã nói:

Ở một nơi cô tịch,
Không có kẻ thù để đánh bại,
Không có người thân để bảo vệ,
Không có người trên để tôn kính,
Không có thuộc hạ để chăm nom.
Vì thế, ngoài việc điều phục tâm mình,
Bạn sẽ phải làm điều gì khác ở đó, hỡi những người trì tụng Mani?1

Không bị quấy rầy bởi bằng hữu và người thân, không bị xáo trộn bởi nhu cầu kiếm sống bằng việc thương mại hay canh tác đất đai, bạn sẽ có thể nhất tâm tập trung vào thực hành tâm linh sâu xa và vì thế thực hiện sự tiến bộ tâm linh với thân, ngữ và tâm bạn. Tâm bạn sẽ trở nên tự chủ, tĩnh lặng, trong trẻo và tràn đầy sự xác quyết về chân lý của Giáo Pháp. Đây là lý do vì sao tất cả các bậc hiền triết trong quá khứ đã sống ở nơi hoang vu, trong chốn cô tịch, những vùng núi non có lợi cho thực hành tâm linh. Như Shantideva đã nói:

Và như thế, nhàm chán bởi dục vọng và khao khát của ta,
Giờ đây ta hãy vui thú trong chốn cô tịch,
Ở những nơi mọi tranh chấpxung đột ngừng dứt,
Sự thanh bình và tĩnh lặng của rừng xanh.2

Và cũng có nói:

Không bị dính mắc vào lợi dưỡng, hãy giống như gió, hãy giống như chim.
Sống nơi hoang dã, giống như một con thú nhút nhát.
Hành động đúng đắn, bạn sẽ an trụ thanh thản.

Nếu bạn muốn hoàn toàn tập trung vào Giáo Pháp thay vì bị đong đưa liên tục đó đây bởi những con sóng tham muốnganh ghét, hãy từ bỏ chúng và đi tới một nơi cô tịch. Hãy xoay tâm bạn vào trong, nhận biết những khiếm khuyết của bạn, thoát khỏi chúng, và phát triển mọi phẩm tính tốt lành cố hữu của bạn. Hãy hài lòng với lượng thực phẩm đủ để nuôi sống, quần áo đủ để che thân, và thực hành của bạn sẽ tiến bộ từng ngày, từng tháng và từng năm.

Một khi bạn thoát khỏi mọi điều kiện làm sao lãng, thực hành của bạn sẽ mang lại cho bạn sự tiến bộ dọc theo con đường. Đó là lý do vì sao mọi yogi (hành giả) trong quá khứ đã lang thang từ nơi cô tịch này tới một nơi cô tịch khác. Ngay cả một tháng duy nhất ở một nơi yên tĩnh và hiu quạnh cũng đủ để sự thù hận của bạn được thay thế bằng ước muốn làm lợi lạc chúng sinh, và sự bám luyến vào bằng hữu được thay thế bằng một cảm xúc mãnh liệt về sự vô thường và cái chết cận kề.

Như Đức Atisha đã nói: “Các sao lãng làm hại thực hành của bạn cho tới khi bạn đạt được sự kiên cố. Hãy sống trong cảnh cô tịch nơi rừng rậm và núi non. Thoát khỏi những hoạt động rối loạn, bạn sẽ có thể hoàn toàn hiến mình cho việc thực hành Giáo Pháp, và bạn sẽ không hối tiếc vào lúc chết.”

Và Drom Tönpa3 nói: “Thời đại suy đồi này không phải là lúc để một người bình thường giúp đỡ những người khác ở bên ngoài, nhưng đúng hơn đó là lúc để sống trong những nơi cô tịch và tu tập lòng từ và bi của Bồ đề tâm.”4

Sự mê lầm và những tập khí mạnh mẽ tới nỗi vào lúc đầu việc thực hành Pháp dường như rất khó khăn; nhưng những khó khăn này sẽ dần dần lắng dịu. Một khi bạn đã thấu hiểu điểm cốt yếu của các giáo lý, bạn sẽ không còn phải trải nghiệm sự gian khổ hay khó khăn với giáo lý. Những cố gắng của bạn sẽ mang lại cho bạn niềm vui. Cũng giống như việc phát triển bất kỳ thiện xảo nào – bởi bạn quán triệt những điểm trọng yếu, vấn đề càng lúc càng dễ dàng hơn, sự xác tín của bạn càng lúc càng phát triển, khả năng và nỗ lực của bạn tiếp tục tăng trưởng.

Mọi thiền định hay quán chiếu bạn đã thực hiện sẽ chẳng bao giờ bị lãng phí. Lợi lạc mà nó mang lại sẽ hiện diện trong dòng tâm thức của bạn vào lúc bạn chết, và nó sẽ giúp bạn tái sinh ở một nơi Giáo Pháp nở rộ, thân cận một vị Thầy tâm linh chân chính. Đời này sang đời khác, bạn sẽ tiến triển từ một hành giả tầm thường tới một hành giả trung bình, và từ một hành giả trung bình tới một hành giả xuất sắc. Tinh túy của việc học tập là quán chiếu, và tinh túy của sự quán chiếu là thiền định. Khi bạn tiến càng lúc càng sâu vào ý nghĩa của giáo lý, những phẩm chất phi thường của Giáo Pháp sẽ càng lúc càng rõ ràng hơn, giống như mặt trời rực rỡ hơn khi bạn bay lên cao hơn nữa.

Dấu hiệu cho thấy bạn đã hoàn toàn hấp thu được việc học Pháp của bạn là bạn trở nên an bình tự bản chất. Dấu hiệu của việc bạn đã hấp thu được việc thiền định của bạn là bạn thoát khỏi những cảm xúc che chướng (phiền não chướng). Bởi việc học tập dẫn đến sự quán chiếu và quán chiếu chuyển hóa thành thiền định, việc bạn mê say những hoạt động dối gạt của đời này sẽ suy giảm và thay vào đó bạn sẽ khát khao Giáo Pháp.

Mọi sự bạn làm phù hợp với Giáo Pháp, dù nó có vẻ nhỏ bé hay tầm thường, sẽ mang lại lợi lạc. Như Kinh Hiền Ngu nói:

Đừng xem thường những thiện hạnh nhỏ bé,
Nghĩ rằng chúng khó có thể mang lại lợi lạc;
Bởi từng giọt từng giọt nước
Cuối cùng có thể làm đầy một chiếc bình khổng lồ.

Tương tự như vậy, cho dù bạn chỉ thực hành mỗi ngày một giờ với niềm tin và sự hứng khởi, những phẩm tính tốt đẹp sẽ phát triển một cách vững chắc. Việc thực hành đều đặn làm cho tâm bạn chuyển hóa dễ dàng. Từ việc chỉ nhận ra chân lý tương đối, cuối cùng bạn sẽ đi đến một sự xác quyết sâu xa nơi chân lý tuyệt đối.

Chướng ngại chính yếu của việc phát triển những phẩm tính như thế là sự sao lãng (phóng dật). Sao lãng có thể xảy ra trong từng giây phút. Nếu bạn để thời gian trôi qua một cách vô ích, vào lúc chết bạn sẽ hối tiếc rằng bạn đã không thực hành Giáo pháp. Nhưng đến lúc ấy thì quá trễ, và sự hối tiếc của bạn sẽ chẳng giúp ích được gì. Bây giờ là lúc bạn đi tới một nơi hẻo lánh và đưa những giáo huấn bạn đã nhận từ vị Thầy của bạn vào thực hành. Như thế mỗi khoảnh khắc của đời bạn sẽ trở nên quý giá và ý nghĩa, đưa dẫn bạn càng lúc càng xa rời sinh tử và tiến gần đến sự giải thoát hơn nữa.

Chú thích:

1. Người trì tụng Mani (mani pa): người trì tụng Mani, thần chú của Đức Quán Thế Âm, Đức Phật của lòng Bi mẫn. Ở đây, “những người trì tụng Mani” được dùng như một thuật ngữ đầy trìu mến để chỉ các hành giả Giáo Pháp.

2. The Way of the Bodhisattva (Nhập Bồ Tát Hạnh), trang 121.

3. Drom Tönpa Gyalwai Jungne (‘brom ston pa rgyal ba’i ‘byung gnas, 1004-1064): đệ tử người Tây Tạng thân thiết nhất của Đức Atisha, người đã ở với vị Thầy này mười tám năm. Ngài sáng lập tu viện Reting (rwa sgreng) nơi ngài an trú và giảng dạy bảy năm trước khi thị tịch ở tuổi sáu mươi.

4. Xem The Words of My Perfect Teacher (Lời Vàng của Thầy Tôi), trang 237.

Thanh Liên trích dịch từ nguyên tác:
“The Heart of Compassion – The Thirty-Seven Verses on The Practice of a Bodhisattva” by Dilgo Khyentse Rinpoche

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31275)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26187)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27466)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27847)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26669)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31154)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20214)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22837)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 29974)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21513)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20185)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22585)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20712)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30221)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28727)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34657)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44157)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35441)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22495)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21302)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20632)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24706)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37832)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 18975)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19286)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21758)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20825)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29467)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35035)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28774)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32546)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26176)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28881)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43063)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34851)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43844)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37820)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21294)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 42986)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48964)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39766)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53745)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36778)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40751)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49666)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47241)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27646)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 26984)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27190)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24049)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20812)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34279)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22424)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25071)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25791)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22901)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22439)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 23289)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21124)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29837)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant