Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tích truyện Pháp

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 32965)
Tích truyện Pháp Cú

Lời Nói Ðầu

Tập "Tích Truyện Pháp Cú" này được dịch theo bản Anh ngữ "Buddhist Legends" của học giả Eugène Watson Burlingame. Nhà học giả này đã căn cứ trên nguyên tác Pháp Cú Sớ Giải (Dhammapada Commentary) bằng tiếng Pàli. Tương truyền Pháp Cú Sớ Giải là công trình của ngài Buddhaghosa (Phật Âm), sống khoảng thế kỷ thứ V Tây lịch.

Nhận thấy sự lợi ích rộng lớn của nó, chúng tôi phụng dịch để đóng góp vào nền Phật học nước nhà. Tuy cố gắng hết sức, nhưng không sao tránh khỏi những thiếu sót, kính mong chư vị Cao Túc thương tình tha thứ cho.

Chúng con cũng xin tri ân Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ cho việc in ấn dịch phẩm.

Kính ghi,
Thiền viện Viên Chiếu
Cuối năm Ất Hợi, 1995.

 

Dẫn Nhập

 

Kính lạy đức Thế Tôn Phật Ðà, đấng Toàn Thiện Toàn Giác.

 

Con xin cúi đầu đảnh lễ Phật, đảnh lễ Pháp, đảnh lễ Tăng.

 

Cả thế gian chìm trong đêm tối dày đặc của vô minh phiền não. Ngài cũng ở thế gianquét sạch được nó. Với năng lực siêu phàm chứng đạt được, Ngài đã thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp.

 

Ngài là bậc Toàn Trí, phân biệt rành mạch chơn ngụy trong mọi vấn đề. Ðấng Ðạo sư đã thuyết nói chánh pháp, vì lòng từ vô lượng đã giảng giải giáo pháp theo căn cứ, khiến trời người đều được an vui, mãn nguyện.

"Một bản chú giải thật sinh động được lưu truyền qua bao thế hệ trên đảo Tích Lan. Nhưng vì tác phẩm viết bằng thổ ngữ địa phương nên sự lợi lạc chẳng đến được các xứ xa xôi. Không chừng tác phẩm sẽ góp phần đắc lực trong việc mang lại an lạc cho hết thảy nhân loại".

Ðấy là ước nguyện của Trưởng lão Kumàra Kassapa đã thổ lộ với tôi, vị Trưởng lão đã khéo tự điều phục được mình, hằng sống với tâm an tịnh, chí nguyện luôn kiên trì. Ngài chân tình khuyến thỉnh tôi, do lòng mong muốn Chánh pháp được trường tồn.

Vì vậy, tôi sẽ thay thế thổ ngữ đầy những lối diễn đạt dài dòng này, phiên dịch tác phẩm qua thứ tiếng thông dụng, êm ái, dễ nghe của kinh điển. Những điểm nào khó hiểu, chưa rõ nghĩa trong các câu kệ, dù chữ hay lời, tôi xin sẽ làm sáng tỏ. Phần còn lại, tôi sẽ trình bày bằng tiếng Pàli, phù hợp với tinh thần các câu kệ. Như thế, tôi mong sẽ đem đến an vui, mãn nguyện cho tâm bậc hiền trí về cả hai mặt đạo và đời.

Tác giả bản Pàli.

Phẩm 1: Song Yếu

1. Nếu con mắt ngươi làm hại ngươi, hãy móc bỏ nó đi
2. Khóc đòi những chuyện trên trời
3. Chàng mập Tissa
4. Không lấy oán trả oán
5. Những vị Tỳ-kheo hay cãi cọ xứ Câu-thâm (Kosambi)
6. Kala anh và Kala em
7. Ðề-bà-đạt-đa đắp y không tương xứng.
8. Những đại đệ tử
9. Trưởng lão Nan-đà
10. Cunda - đồ tể mổ heo
11. Cư sĩ hiền thiện
12. Nghiệp của Ðề-bà-đạt-đa
13. Bà Sumanà
14. Chuyện hai huynh đệ

 

Phẩm 2: Không Phóng Dật

1. Những chuyện luân hồi quanh vua Udena
2. Tiếng nói của một người giàu
3. Châu-lợi-bàn-đặc
4. Ngày lễ của kẻ ngu
5. Ðại Ca-diếp
6. Hai huynh đệ
7. Magha trở thành trời Sakka
8. Một Tỳ-kheo chứng A-la-hán
9. Tissa ở phố chợ

 

Phẩm 3: Tâm

1. Trưởng lão Meghiya
2. Người đọc được tâm
3. Một Tỳ-kheo bất mãn
4. Tăng hộ cháu
5. Trưởng lão tâm được điều phục
6. Tỳ-kheo và thần cây
7. Vì bạo ác nổi mụn nhọt
8. Nanda chăn bò
9. Vừa là mẹ vừa là cha

 

Phẩm 4: Hoa

1. Ðất của tâm
2. Một Tỳ-kheo chứng A-la-hán
3. Vua Vidùdabha trả thù họ Thích-ca
4. Người tôn vinh chồng
5. Kosiya keo kiệt
6. Ẩn sĩ lõa thể Pàthika
7. Vua và vua các vua.
8. Ðám cưới bà Tỳ-xá-khư
9. Câu hỏi của trưởng lão A-nan
10. Ðế Thích cúng dường Ðại Ca-diếp
11. Godhica chứng Niết-bàn
12. Sirigutta Garahadinna

 

Phẩm 5: Ngu

1. Nhà vua và người nghèo có vợ đẹp
2. Một tăng sinh khó dạy
3. Kẻ vận rủi trong nhà
4. Kẻ móc túi
5. Trí ngu
6. Từ trụy lạc tới đức hạnh
7. Một người cùi bị thử thách phủ nhận niềm tin
8. Một nông dân bị kết tội oan
9. Sumana - người làm vườn
10. Uppalavannà bị cưỡng bức
11. Ðạo sĩ lõa thể Jambuka
12. Quỷ rắn và quỷ quạ
13. Quỷ búa tạ
14. Citta và Sudhamma
15. Sa-di bảy tuổi được lòng mọi người

 

Phẩm 6: Hiền Trí

1. Một người được kho báu tinh thần
2. Những Tỳ-kheo ương ngạnh
3. Trưởng lão Xa-nặc
4. Trưởng lão đại Kappina
5. Sa-di Pandita
6. Vững vàng như đá tảng
7. Yên lặng sau cơn bão
8. Một lũ lang thang
9. Chồng và vợ
10. Ít người đến bờ kia
11. Từ bỏ đen tối.

 

Phẩm 7: A La Hán

1. Ðấng Như Lai không đau khổ
2. Thoát khỏi trói buộc
3. Một Tỳ-kheo trữ thức ăn
4. Tỳ-kheo và nữ thần
5. Ðế Thích lễ kính một Tỳ-kheo
6. Tưởng mình bị khi dễ
7. Mất một mắt
8. Không tin vào ai khác
9. Trưởng lão Revata trong rừng keo
10. Một kỹ nữ cám dỗ một Tỳ-kheo

 

Phẩm 8: Ngàn

1. Tên đao phủ
2. Sự chuyển hóa của Bàhiya Dàruciriya
3. Cô gái lấy tên cướp
4. Ðược và mất
5. Chú của Xá-lợi-phất
6. Cháu của Xá-lợi-phất
7. Bạn của Xá-lợi-phất
8. Chàng trai tăng tuổi thọ
9. Sa-di Samkicca
10. Tỳ-kheo và kẻ cướp
11. Lưỡi dao cạo
12. Patacara bị mất cả gia đình
13. Kisà Gotami tìm hạt cải trị bệnh cho đứa con đã chết
14. Góa phụ Bazhuputtikà và những đứa con bất hiếu

 

Phẩm 9: Ác

1. Bà-la-môn tiểu nhất y
2. Một Tỳ-kheo bất mãn
3. Thiên nữ với Tỳ-kheo
4. Cấp Cô Ðộcnữ thần
5. Tỳ-kheo không giữ gìn tốt đồ dùng
6. Chưởng khố chân mèo
7. Thương gia đại phú
8. Người thợ săn bắn mê muội
9. Thợ săn bị bầy chó của mình nuốt sống
10. Thợ kim hoàn, Tỳ-kheo và con ngỗng
11. Ba nhóm Tỳ-kheo
12. Suppabuddha lăng nhục đạo sư

 

Phẩm 10: Hình Phạt

1. Lục quần Tỳ-kheo
2. Lục quần Tỳ-kheo
3. Một bầy trẻ
4. Tỳ-kheo và con ma
5. Tỳ-xá-khư và quyến thuộc giữ bát quan trai
6. Ngạ quỷ hình trăn
7. Cái chết của Ðại Mục-kiền-liên
8. Tỳ-kheo lắm của
9. Santati, quan đại thần của vua
10. Tỳ-kheo và bộ đồ rách
11. Sa-di Sukha

 

Phẩm 11: Già

1. Bạn của Tỳ-xá-khư say rượu
2. Ðức Phật chữa trị một Tỳ-kheo lụy tình
3. Bà ni già
4. Nhóm Tỳ-kheo cả tin
5. Ni cô và bóng sắc
6. Hoàng hậu Millikà và con chó
7. Một Tỳ-kheo thường nói không đúng chỗ
8. Kệ của Trưởng lão A-nan
9. Ðại phú, con của chưởng khố.

 

Phẩm 12: Tự Ngã

1. Hoàng tử Bồ-đề và con chim thần
2. Một Tỳ-kheo tham lam
3. Hãy hành động theo lời nói
4. Ðừng ghét bỏ cha mẹ
5. Mahà Kàla bị giết
6. Ðề-bà-đạt-đa tìm cách giết Phật
7. Ðề-bà-đạt-đa gây chia rẽ trong Tăng đoàn
8. Vị Tỳ-kheo đố kỵ
9. Cô gái giang hồ cứu mạng một cư sĩ
10. Tu tập chân chánh để tôn quý Thế Tôn

 

Phẩm 13: Thế Gian

1. Một thiếu nữ chế giễu thầy Tỳ-kheo trẻ
2. Ðức Phật về thăm Ca-tỳ-la-vệ
3. Năm trăm Tỳ-kheo chứng quả
4. Hoàng tử Vô úy (Abhaya) mất hầu thiếp
5. Thầy Tỳ-kheo và cây chổi
6. Câu chuyện của Chỉ Man
7. Cô bé dệt vải
8. Ba mươi vị Tỳ-kheo
9. Chiến Già vu khống Phật
10. Phẩm vật không thể nào so sánh
11. Ðức hạnh được trả giả

 

Phẩm 14: Phật

1. Ðấng toàn giác
2. Thần thông song hành
3. Long vươngái nữ
4. Phương cách giáo giới trong ngày bố-tát của bảy đời đức Phật
5. Phật trị bệnh bất mãn cho thầy Tỳ-kheo
6. Sa-môn và Long vương
7. Người cao quý sinh ra ở đâu?
8. Ðiều gì hạnh phúc nhất trên đời
9. Tôn kính những bậc đáng tôn kính

 

Phẩm 15: Hạnh Phúc

1. Mối tranh chấp giữa hai lân bang
2. Ma vương chế ngự thôn dân
3. Vua Ba-tư-nặc bại trận
4. Ðừng nhìn say đắm nữ nhân
5. Phận ban thức ăn cho người đói
6. Ăn uống tiết độ
7. Sống chân chánh là tôn kính Phật
8. Ðế Thích săn sóc Thế Tôn

 

Phẩm 16: Hỷ Ái

1. Cha mẹ và con
2. Phật an ủi người phiền muộn
3. Phật an ủi kẻ ưu sầu
4. Các hoàng tử Lệ-xá và kỹ nữ
5. Cô nương tử kim
6. Ðừng để tâm vào của cải thế gian
7. Ngài Ca-diếp được cúng bánh
8. Tôn giả chứng quả A-na-hàm
9. Nandiya được sanh thiên

 

Phẩm 17: Sân Hận

1. Sân hận tàn phá dung nhan
2. Thọ thần và thầy Tỳ-kheo
3. Người nghèo và cô con gái
4. Việc thiện nhỏ đưa đến thiên giới
5. Bà-la-môn đón Phật như con
6. Có phải người tặng quà làm nên quà tặng
7. Không có gì quá nhiều, quá ít
8. Lục quần Tỳ-kheo.

 

Phẩm 18: Cấu Uế

1. Người đồ tể và đứa con trai
2. Dần dà từng chút
3. Con rận tiếc của
4. Thầy Tỳ-kheo kiêu ngạo
5. Tà hạnh của nữ nhân
6. Lịch sựthô lỗ
7. Tất cả giới cấm đều khó giữ
8. Kẻ bới lỗi người khác
9. Những người lơ đễnh
10. Trưởng giả Ram
11. Tỳ-kheo bới lỗi
12. Hư không có dấu chân?

 

Phẩm 19: Công Bình Pháp Trụ

1. Quan tòa bất công
2. Lục quần Tỳ-kheo
3. Không phải vì nói nhiều mà được ca tụng
4. Người trẻ có thể là trưởng lão?
5. Thế nào là người hoàn toàn?
6. Ðầu trọc không làm nên Tỳ-kheo
7. Ðiều gì làm nên Sa-môn
8. Không phải im lặng làm nên bậc thánh
9. Cao quí là hành động cao quí
10. Ðừng tự mãn

 

Phẩm 20: Ðạo

1. Bát chánh đạo là đường tối thượng
2. Vô thường
3. Khổ
4. Vô ngã
5. Chớ hẹn ngày mai
6. Con quỉ đầu heo
7. Pothila, ông sư rỗng
8. Các lão Tỳ-kheo và lão bà
9. Cỏ úa, hoa phai
10. Chắc chắn sẽ chết
11. Người mẹ mất con và những hạt cải
12. Người đàn bà mất hết thân quyến

 

Phẩm 21: Tạp Lục

1. Sông Hằng dâng nước
2. Không lấy oán báo oán
3. Các Tỳ-kheo phù hoa
4. Sa-môn giết cha mẹ
5. Cậu bé và quỉ dữ
6. Hoàng tử Bạt-kỳ làm sa-môn
7. Cư sĩ Tâm - người thành tín
8. Cô gái đức hạnh
9. Vị sa-môn độc cư

 

Phẩm 22: Ðịa Ngục

1. Cái chết của Tôn-đà-ly
2. Con quỷ xương khô
3. Xảo thuật tìm thức ăn
4. Kẻ đào hoa
5. Thầy sa-môn tự phụ
6. Người vợ ghen tuông
7. Tự canh phòng như giữ thành
8. Các đạo sĩ lõa thể
9. Trẻ con quy y Phật

 

Phẩm 23: Voi

1. Phật bị lăng nhục
2. Thầy sa-môn luyện voi
3. Lão Bà-la-môn và các con
4. Ăn uống điều độ
5. Chú tiểudạ xoa
6. Con voi sa lầy
7. Voi làm thị giả Phật
8. Ma vương cám dỗ Phật.

 

Phẩm 24: Tham Ái

1. Con cá vàng
2. Con heo nái tơ
3. Thầy Tỳ-kheo bỏ đạo
4. Ngôi nhà tù
5. Sắc đẹp phù du
6. Chàng trai có cô vợ diễn viên nhào lộn
7. Xạ thủ trẻ tài ba
8. Ma vương chẳng nhát được La-hầu-la
9. Nhà tu khổ hạnh hoài nghi
10. Pháp thí thắng mọi thí
11. Quan chưởng khố không con
12. Bố thí nhiều và bố thí ít

 

Phẩm 25: Tỳ Kheo

1. Giữ gìn ngũ căn
2. Thầy Tỳ-kheo giết ngỗng
3. Thầy Tỳ-kheo không giữ gìn mồm miệng
4. Bằng sự tinh tấn làm vinh dự cho Phật
5. Thầy Tỳ-kheo lạc bầy
6. Người Bà-la-môn cúng dường năm lần thành quả đầu tiên
7. Ðảng cướp đi tu
8. Cỏ úa, hoa phai
9. Vị sa-môn nhàn tịnh
10. Vị sa-môn và chiếc khố rách
11. Người thầy chánh pháp là thầy ta
12. Vị sa-môn và long vương

 

Phẩm 26: Bà La Môn

1. Bà-la-môn đại hỉ
2. Thế nào là "hai trạng thái"?
3. Thế nào là bờ kia?
4. Thế nào là Bà-la-môn?
5. Ðức Phật sáng ngời
6. Thế nào là Tỳ-kheo?
7. Ðức nhẫn nại chinh phục sự tàn ác
8. Ngài di mẫu thọ giới
9. Tôn kính người đáng tôn kính
10. Thế nào là Bà-la-môn?
11. Người Bà-la-môn gian xảo
12. Bà Kisa Gotami, vị Tỳ-kheo ni tu hạnh đầu đà
13. Thế nào là Bà-la-môn?
14. Diễn viên xiếc Uggasena
15. Tranh cãi về sức kéo
16. Ðức Thế Tôn chế ngự kẻ sân giận
17. Tôn giả Xá-lợi-phất bị mẹ mắng
18. A-la-hán có phàm thân hay không?
19. Người nô lệ trút gánh nặng
20. Khemà trí tuệ
21. Vị sa-môn và thiên thần
22. Vị sa-môn và người đàn bà
23. Bốn vị sa-di
24. Tôn giả Ðại-bàn-đặc có còn sân giận không?
25. Sức mạnh tập khí
26. Thầy Tỳ-kheo bị kết tội trộm cắp
27. Tôn giả Xá-lợi-phất bị hiểu lầm
28. Tôn giả Mục-kiền-liên bị hiểu lầm
29. Bỏ cả tốt lẫn xấu
30. Tôn giả Nguyệt Quang
31. Bảy năm trong bụng mẹ
32. Cô gái giang hồ quyến rũ thầy Tỳ-kheo Sundarasamudda
33. JotikaJatila
34. Vua A-xà-thế đánh chiếm lâu đài Jotika
35. Người diễn kịch câm xuất gia làm sa-môn
36. Người diễn kịch câm xuất gia làm sa-môn
37. Người gõ đầu lâu
38. Ông bà Visàkha
39. Angulimàla, Vô não
40. Phạm hạnh của thí chủ quyết định phước báo của cúng dường

Phần kết

Ý kiến bạn đọc
29 Tháng Bảy 201407:33
Khách
Kính chào các Thầy, con nay đọc dược Tích Truyện Pháp Cứu long con thay thanh nhàn, cúi mong các Thầy có sách xin tặng cho con nhé các thầy, xin cám ơn các thầy! kính chào!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19556)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23824)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41007)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19571)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23818)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21605)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23153)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27355)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26371)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29133)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 32955)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20052)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25595)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20760)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31075)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38273)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21291)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44049)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29650)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 41963)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22014)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45495)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 31939)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23807)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24188)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29040)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33729)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27546)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31919)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 20882)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28719)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21396)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27848)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 21938)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21318)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19384)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19309)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19704)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19097)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 28947)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20487)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28078)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23469)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 32951)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31682)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21261)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39443)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21415)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19235)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26136)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24664)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21633)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22237)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 28960)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22415)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20359)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23368)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21098)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35090)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24455)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant