Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tích truyện Pháp

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 33075)
Tích truyện Pháp Cú

Lời Nói Ðầu

Tập "Tích Truyện Pháp Cú" này được dịch theo bản Anh ngữ "Buddhist Legends" của học giả Eugène Watson Burlingame. Nhà học giả này đã căn cứ trên nguyên tác Pháp Cú Sớ Giải (Dhammapada Commentary) bằng tiếng Pàli. Tương truyền Pháp Cú Sớ Giải là công trình của ngài Buddhaghosa (Phật Âm), sống khoảng thế kỷ thứ V Tây lịch.

Nhận thấy sự lợi ích rộng lớn của nó, chúng tôi phụng dịch để đóng góp vào nền Phật học nước nhà. Tuy cố gắng hết sức, nhưng không sao tránh khỏi những thiếu sót, kính mong chư vị Cao Túc thương tình tha thứ cho.

Chúng con cũng xin tri ân Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ cho việc in ấn dịch phẩm.

Kính ghi,
Thiền viện Viên Chiếu
Cuối năm Ất Hợi, 1995.

 

Dẫn Nhập

 

Kính lạy đức Thế Tôn Phật Ðà, đấng Toàn Thiện Toàn Giác.

 

Con xin cúi đầu đảnh lễ Phật, đảnh lễ Pháp, đảnh lễ Tăng.

 

Cả thế gian chìm trong đêm tối dày đặc của vô minh phiền não. Ngài cũng ở thế gianquét sạch được nó. Với năng lực siêu phàm chứng đạt được, Ngài đã thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp.

 

Ngài là bậc Toàn Trí, phân biệt rành mạch chơn ngụy trong mọi vấn đề. Ðấng Ðạo sư đã thuyết nói chánh pháp, vì lòng từ vô lượng đã giảng giải giáo pháp theo căn cứ, khiến trời người đều được an vui, mãn nguyện.

"Một bản chú giải thật sinh động được lưu truyền qua bao thế hệ trên đảo Tích Lan. Nhưng vì tác phẩm viết bằng thổ ngữ địa phương nên sự lợi lạc chẳng đến được các xứ xa xôi. Không chừng tác phẩm sẽ góp phần đắc lực trong việc mang lại an lạc cho hết thảy nhân loại".

Ðấy là ước nguyện của Trưởng lão Kumàra Kassapa đã thổ lộ với tôi, vị Trưởng lão đã khéo tự điều phục được mình, hằng sống với tâm an tịnh, chí nguyện luôn kiên trì. Ngài chân tình khuyến thỉnh tôi, do lòng mong muốn Chánh pháp được trường tồn.

Vì vậy, tôi sẽ thay thế thổ ngữ đầy những lối diễn đạt dài dòng này, phiên dịch tác phẩm qua thứ tiếng thông dụng, êm ái, dễ nghe của kinh điển. Những điểm nào khó hiểu, chưa rõ nghĩa trong các câu kệ, dù chữ hay lời, tôi xin sẽ làm sáng tỏ. Phần còn lại, tôi sẽ trình bày bằng tiếng Pàli, phù hợp với tinh thần các câu kệ. Như thế, tôi mong sẽ đem đến an vui, mãn nguyện cho tâm bậc hiền trí về cả hai mặt đạo và đời.

Tác giả bản Pàli.

Phẩm 1: Song Yếu

1. Nếu con mắt ngươi làm hại ngươi, hãy móc bỏ nó đi
2. Khóc đòi những chuyện trên trời
3. Chàng mập Tissa
4. Không lấy oán trả oán
5. Những vị Tỳ-kheo hay cãi cọ xứ Câu-thâm (Kosambi)
6. Kala anh và Kala em
7. Ðề-bà-đạt-đa đắp y không tương xứng.
8. Những đại đệ tử
9. Trưởng lão Nan-đà
10. Cunda - đồ tể mổ heo
11. Cư sĩ hiền thiện
12. Nghiệp của Ðề-bà-đạt-đa
13. Bà Sumanà
14. Chuyện hai huynh đệ

 

Phẩm 2: Không Phóng Dật

1. Những chuyện luân hồi quanh vua Udena
2. Tiếng nói của một người giàu
3. Châu-lợi-bàn-đặc
4. Ngày lễ của kẻ ngu
5. Ðại Ca-diếp
6. Hai huynh đệ
7. Magha trở thành trời Sakka
8. Một Tỳ-kheo chứng A-la-hán
9. Tissa ở phố chợ

 

Phẩm 3: Tâm

1. Trưởng lão Meghiya
2. Người đọc được tâm
3. Một Tỳ-kheo bất mãn
4. Tăng hộ cháu
5. Trưởng lão tâm được điều phục
6. Tỳ-kheo và thần cây
7. Vì bạo ác nổi mụn nhọt
8. Nanda chăn bò
9. Vừa là mẹ vừa là cha

 

Phẩm 4: Hoa

1. Ðất của tâm
2. Một Tỳ-kheo chứng A-la-hán
3. Vua Vidùdabha trả thù họ Thích-ca
4. Người tôn vinh chồng
5. Kosiya keo kiệt
6. Ẩn sĩ lõa thể Pàthika
7. Vua và vua các vua.
8. Ðám cưới bà Tỳ-xá-khư
9. Câu hỏi của trưởng lão A-nan
10. Ðế Thích cúng dường Ðại Ca-diếp
11. Godhica chứng Niết-bàn
12. Sirigutta Garahadinna

 

Phẩm 5: Ngu

1. Nhà vua và người nghèo có vợ đẹp
2. Một tăng sinh khó dạy
3. Kẻ vận rủi trong nhà
4. Kẻ móc túi
5. Trí ngu
6. Từ trụy lạc tới đức hạnh
7. Một người cùi bị thử thách phủ nhận niềm tin
8. Một nông dân bị kết tội oan
9. Sumana - người làm vườn
10. Uppalavannà bị cưỡng bức
11. Ðạo sĩ lõa thể Jambuka
12. Quỷ rắn và quỷ quạ
13. Quỷ búa tạ
14. Citta và Sudhamma
15. Sa-di bảy tuổi được lòng mọi người

 

Phẩm 6: Hiền Trí

1. Một người được kho báu tinh thần
2. Những Tỳ-kheo ương ngạnh
3. Trưởng lão Xa-nặc
4. Trưởng lão đại Kappina
5. Sa-di Pandita
6. Vững vàng như đá tảng
7. Yên lặng sau cơn bão
8. Một lũ lang thang
9. Chồng và vợ
10. Ít người đến bờ kia
11. Từ bỏ đen tối.

 

Phẩm 7: A La Hán

1. Ðấng Như Lai không đau khổ
2. Thoát khỏi trói buộc
3. Một Tỳ-kheo trữ thức ăn
4. Tỳ-kheo và nữ thần
5. Ðế Thích lễ kính một Tỳ-kheo
6. Tưởng mình bị khi dễ
7. Mất một mắt
8. Không tin vào ai khác
9. Trưởng lão Revata trong rừng keo
10. Một kỹ nữ cám dỗ một Tỳ-kheo

 

Phẩm 8: Ngàn

1. Tên đao phủ
2. Sự chuyển hóa của Bàhiya Dàruciriya
3. Cô gái lấy tên cướp
4. Ðược và mất
5. Chú của Xá-lợi-phất
6. Cháu của Xá-lợi-phất
7. Bạn của Xá-lợi-phất
8. Chàng trai tăng tuổi thọ
9. Sa-di Samkicca
10. Tỳ-kheo và kẻ cướp
11. Lưỡi dao cạo
12. Patacara bị mất cả gia đình
13. Kisà Gotami tìm hạt cải trị bệnh cho đứa con đã chết
14. Góa phụ Bazhuputtikà và những đứa con bất hiếu

 

Phẩm 9: Ác

1. Bà-la-môn tiểu nhất y
2. Một Tỳ-kheo bất mãn
3. Thiên nữ với Tỳ-kheo
4. Cấp Cô Ðộcnữ thần
5. Tỳ-kheo không giữ gìn tốt đồ dùng
6. Chưởng khố chân mèo
7. Thương gia đại phú
8. Người thợ săn bắn mê muội
9. Thợ săn bị bầy chó của mình nuốt sống
10. Thợ kim hoàn, Tỳ-kheo và con ngỗng
11. Ba nhóm Tỳ-kheo
12. Suppabuddha lăng nhục đạo sư

 

Phẩm 10: Hình Phạt

1. Lục quần Tỳ-kheo
2. Lục quần Tỳ-kheo
3. Một bầy trẻ
4. Tỳ-kheo và con ma
5. Tỳ-xá-khư và quyến thuộc giữ bát quan trai
6. Ngạ quỷ hình trăn
7. Cái chết của Ðại Mục-kiền-liên
8. Tỳ-kheo lắm của
9. Santati, quan đại thần của vua
10. Tỳ-kheo và bộ đồ rách
11. Sa-di Sukha

 

Phẩm 11: Già

1. Bạn của Tỳ-xá-khư say rượu
2. Ðức Phật chữa trị một Tỳ-kheo lụy tình
3. Bà ni già
4. Nhóm Tỳ-kheo cả tin
5. Ni cô và bóng sắc
6. Hoàng hậu Millikà và con chó
7. Một Tỳ-kheo thường nói không đúng chỗ
8. Kệ của Trưởng lão A-nan
9. Ðại phú, con của chưởng khố.

 

Phẩm 12: Tự Ngã

1. Hoàng tử Bồ-đề và con chim thần
2. Một Tỳ-kheo tham lam
3. Hãy hành động theo lời nói
4. Ðừng ghét bỏ cha mẹ
5. Mahà Kàla bị giết
6. Ðề-bà-đạt-đa tìm cách giết Phật
7. Ðề-bà-đạt-đa gây chia rẽ trong Tăng đoàn
8. Vị Tỳ-kheo đố kỵ
9. Cô gái giang hồ cứu mạng một cư sĩ
10. Tu tập chân chánh để tôn quý Thế Tôn

 

Phẩm 13: Thế Gian

1. Một thiếu nữ chế giễu thầy Tỳ-kheo trẻ
2. Ðức Phật về thăm Ca-tỳ-la-vệ
3. Năm trăm Tỳ-kheo chứng quả
4. Hoàng tử Vô úy (Abhaya) mất hầu thiếp
5. Thầy Tỳ-kheo và cây chổi
6. Câu chuyện của Chỉ Man
7. Cô bé dệt vải
8. Ba mươi vị Tỳ-kheo
9. Chiến Già vu khống Phật
10. Phẩm vật không thể nào so sánh
11. Ðức hạnh được trả giả

 

Phẩm 14: Phật

1. Ðấng toàn giác
2. Thần thông song hành
3. Long vươngái nữ
4. Phương cách giáo giới trong ngày bố-tát của bảy đời đức Phật
5. Phật trị bệnh bất mãn cho thầy Tỳ-kheo
6. Sa-môn và Long vương
7. Người cao quý sinh ra ở đâu?
8. Ðiều gì hạnh phúc nhất trên đời
9. Tôn kính những bậc đáng tôn kính

 

Phẩm 15: Hạnh Phúc

1. Mối tranh chấp giữa hai lân bang
2. Ma vương chế ngự thôn dân
3. Vua Ba-tư-nặc bại trận
4. Ðừng nhìn say đắm nữ nhân
5. Phận ban thức ăn cho người đói
6. Ăn uống tiết độ
7. Sống chân chánh là tôn kính Phật
8. Ðế Thích săn sóc Thế Tôn

 

Phẩm 16: Hỷ Ái

1. Cha mẹ và con
2. Phật an ủi người phiền muộn
3. Phật an ủi kẻ ưu sầu
4. Các hoàng tử Lệ-xá và kỹ nữ
5. Cô nương tử kim
6. Ðừng để tâm vào của cải thế gian
7. Ngài Ca-diếp được cúng bánh
8. Tôn giả chứng quả A-na-hàm
9. Nandiya được sanh thiên

 

Phẩm 17: Sân Hận

1. Sân hận tàn phá dung nhan
2. Thọ thần và thầy Tỳ-kheo
3. Người nghèo và cô con gái
4. Việc thiện nhỏ đưa đến thiên giới
5. Bà-la-môn đón Phật như con
6. Có phải người tặng quà làm nên quà tặng
7. Không có gì quá nhiều, quá ít
8. Lục quần Tỳ-kheo.

 

Phẩm 18: Cấu Uế

1. Người đồ tể và đứa con trai
2. Dần dà từng chút
3. Con rận tiếc của
4. Thầy Tỳ-kheo kiêu ngạo
5. Tà hạnh của nữ nhân
6. Lịch sựthô lỗ
7. Tất cả giới cấm đều khó giữ
8. Kẻ bới lỗi người khác
9. Những người lơ đễnh
10. Trưởng giả Ram
11. Tỳ-kheo bới lỗi
12. Hư không có dấu chân?

 

Phẩm 19: Công Bình Pháp Trụ

1. Quan tòa bất công
2. Lục quần Tỳ-kheo
3. Không phải vì nói nhiều mà được ca tụng
4. Người trẻ có thể là trưởng lão?
5. Thế nào là người hoàn toàn?
6. Ðầu trọc không làm nên Tỳ-kheo
7. Ðiều gì làm nên Sa-môn
8. Không phải im lặng làm nên bậc thánh
9. Cao quí là hành động cao quí
10. Ðừng tự mãn

 

Phẩm 20: Ðạo

1. Bát chánh đạo là đường tối thượng
2. Vô thường
3. Khổ
4. Vô ngã
5. Chớ hẹn ngày mai
6. Con quỉ đầu heo
7. Pothila, ông sư rỗng
8. Các lão Tỳ-kheo và lão bà
9. Cỏ úa, hoa phai
10. Chắc chắn sẽ chết
11. Người mẹ mất con và những hạt cải
12. Người đàn bà mất hết thân quyến

 

Phẩm 21: Tạp Lục

1. Sông Hằng dâng nước
2. Không lấy oán báo oán
3. Các Tỳ-kheo phù hoa
4. Sa-môn giết cha mẹ
5. Cậu bé và quỉ dữ
6. Hoàng tử Bạt-kỳ làm sa-môn
7. Cư sĩ Tâm - người thành tín
8. Cô gái đức hạnh
9. Vị sa-môn độc cư

 

Phẩm 22: Ðịa Ngục

1. Cái chết của Tôn-đà-ly
2. Con quỷ xương khô
3. Xảo thuật tìm thức ăn
4. Kẻ đào hoa
5. Thầy sa-môn tự phụ
6. Người vợ ghen tuông
7. Tự canh phòng như giữ thành
8. Các đạo sĩ lõa thể
9. Trẻ con quy y Phật

 

Phẩm 23: Voi

1. Phật bị lăng nhục
2. Thầy sa-môn luyện voi
3. Lão Bà-la-môn và các con
4. Ăn uống điều độ
5. Chú tiểudạ xoa
6. Con voi sa lầy
7. Voi làm thị giả Phật
8. Ma vương cám dỗ Phật.

 

Phẩm 24: Tham Ái

1. Con cá vàng
2. Con heo nái tơ
3. Thầy Tỳ-kheo bỏ đạo
4. Ngôi nhà tù
5. Sắc đẹp phù du
6. Chàng trai có cô vợ diễn viên nhào lộn
7. Xạ thủ trẻ tài ba
8. Ma vương chẳng nhát được La-hầu-la
9. Nhà tu khổ hạnh hoài nghi
10. Pháp thí thắng mọi thí
11. Quan chưởng khố không con
12. Bố thí nhiều và bố thí ít

 

Phẩm 25: Tỳ Kheo

1. Giữ gìn ngũ căn
2. Thầy Tỳ-kheo giết ngỗng
3. Thầy Tỳ-kheo không giữ gìn mồm miệng
4. Bằng sự tinh tấn làm vinh dự cho Phật
5. Thầy Tỳ-kheo lạc bầy
6. Người Bà-la-môn cúng dường năm lần thành quả đầu tiên
7. Ðảng cướp đi tu
8. Cỏ úa, hoa phai
9. Vị sa-môn nhàn tịnh
10. Vị sa-môn và chiếc khố rách
11. Người thầy chánh pháp là thầy ta
12. Vị sa-môn và long vương

 

Phẩm 26: Bà La Môn

1. Bà-la-môn đại hỉ
2. Thế nào là "hai trạng thái"?
3. Thế nào là bờ kia?
4. Thế nào là Bà-la-môn?
5. Ðức Phật sáng ngời
6. Thế nào là Tỳ-kheo?
7. Ðức nhẫn nại chinh phục sự tàn ác
8. Ngài di mẫu thọ giới
9. Tôn kính người đáng tôn kính
10. Thế nào là Bà-la-môn?
11. Người Bà-la-môn gian xảo
12. Bà Kisa Gotami, vị Tỳ-kheo ni tu hạnh đầu đà
13. Thế nào là Bà-la-môn?
14. Diễn viên xiếc Uggasena
15. Tranh cãi về sức kéo
16. Ðức Thế Tôn chế ngự kẻ sân giận
17. Tôn giả Xá-lợi-phất bị mẹ mắng
18. A-la-hán có phàm thân hay không?
19. Người nô lệ trút gánh nặng
20. Khemà trí tuệ
21. Vị sa-môn và thiên thần
22. Vị sa-môn và người đàn bà
23. Bốn vị sa-di
24. Tôn giả Ðại-bàn-đặc có còn sân giận không?
25. Sức mạnh tập khí
26. Thầy Tỳ-kheo bị kết tội trộm cắp
27. Tôn giả Xá-lợi-phất bị hiểu lầm
28. Tôn giả Mục-kiền-liên bị hiểu lầm
29. Bỏ cả tốt lẫn xấu
30. Tôn giả Nguyệt Quang
31. Bảy năm trong bụng mẹ
32. Cô gái giang hồ quyến rũ thầy Tỳ-kheo Sundarasamudda
33. JotikaJatila
34. Vua A-xà-thế đánh chiếm lâu đài Jotika
35. Người diễn kịch câm xuất gia làm sa-môn
36. Người diễn kịch câm xuất gia làm sa-môn
37. Người gõ đầu lâu
38. Ông bà Visàkha
39. Angulimàla, Vô não
40. Phạm hạnh của thí chủ quyết định phước báo của cúng dường

Phần kết

Ý kiến bạn đọc
29 Tháng Bảy 201407:33
Khách
Kính chào các Thầy, con nay đọc dược Tích Truyện Pháp Cứu long con thay thanh nhàn, cúi mong các Thầy có sách xin tặng cho con nhé các thầy, xin cám ơn các thầy! kính chào!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11616)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11924)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11095)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12055)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10748)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9935)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10161)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14315)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12081)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15321)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10595)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12544)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12647)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16528)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19626)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13098)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12238)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11821)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13474)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11930)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11831)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11620)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12750)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15651)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12878)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9852)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17997)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9057)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15285)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12192)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11454)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19662)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24569)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10669)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant