Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Lịch sử phát triển của Phật giáo

18 Tháng Hai 201100:00(Xem: 12662)
2. Lịch sử phát triển của Phật giáo

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

2. Lịch sử phát triển của Phật giáo

2.1 Phật giáo phát sinh từ Ấn Độ

Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ. Phật giáo Ấn Độ phát triển qua ba thời kỳ.

2.1.1 Thời Phật còn tại thế và sau khi diệt độ khoảng hai trăm (200) năm

Thời kỳ này gọi là thời kỳ nguyên thuỷ của Phật giáo, đây là thời kỳ thuần nhất của Phật giáo. Đức Phật phản đối việc cúng bái mê tín, phản đối việc sùng bái ngẫu tượng, Ngài không chủ trương việc thần thánh hoá cá nhân mà chỉ dạy mọi người thực hiện theo giáo pháp và tuân giữ giới luật. Ngài thường dạy các đệ tử, ta không phải là người lãnh đạo, ta chỉ là một thành viên trong tăng đoàn mà thôi. Đức Phật dùng những quan niệmphương pháp bình đẳng, thiết thực để giúp đỡ chúng sinh thoát khỏi những khổ não của thân tâm. Đối tượng của kinh luật là con người, mục đích của kinh Phật là cứu độ con người.

2.1.2 Thời kỳ sau Phật diệt độ khoảng bốn trăm (400) năm 

Tư tưởng Phật giáo dần dần có sự biến đổi và mang tính khu vực. Ở Ấn Độ do khí hậu, ngôn ngữ và dân tộc khác nhau nên quá trình truyền bá của Phật giáo trên phương diện hình thái và tư tưởng cũng có nhiều thay đổi. Mỗi một vị thầy khi truyền bá ở mỗi khu vực khác nhau, vì để thích ứng với nhu cầu của đại chúng cùng xã hội đương thời nên sinh ra những khác biệt trên phương diện hình thức cùng tư tưởng nên thời kỳ này còn gọi là thời kỳ bộ phái Phật giáo. Thời kỳ bộ phái Phật giáo chú trọng nhiều đến việc chỉnh lý, lý luậnbiện minh của quan niệmxu hướng coi trọng việc giải thoát của cá nhân. Do vậy mà sau này xu hướng Đại thừa gọi bộ phái Phật giáo này là Tiểu thừa. Nhưng bộ phái Phật giáo có hai bộ phận lớn là:

Thượng toạ bộ nhiều tư tưởng bảo thủ
Đại chúng bộ nhiều tư tưởng cởi mở hơn

Theo quan điểm của Tiểu thừa là cổ xe nhỏ chú trọng nhiều đến tư tưởng tự độ hơn độ tha. Ngày nay không nên dùng danh từ này mà nên gọi là Nam truyền hay Nam Tông.

Đại thừa Phật giáo (theo cách gọi trước đây) hình thành sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn từ năm trăm (500) đến một ngàn (1000) năm. Đề xướng tinh thần Bồ-tát-đạo vì lợi ích của quảng đại chúng sinh, vì thành tựu Phật đạo phát Bồ-đề-tâm. Đại bồ đề tâmtâm nguyện “Nguyện độ chúng sinh đồng ly khổ nạn, không vì sự an lạc của tự thân” đó chính là tinh thần “vì mọi người”. Đại thừa Phật giáo (nay nên gọi là Bắc tông, hay Bắc truyền) ở Ấn Độ chia thành ba phái là:

Y cứ tư tưởng Bát Nhã gọi là Trung Quán học phái
Y cứ tư tưởng Duy thức gọi là Du Già học phái
Y cứ tư tưởng Duy tâm gọi là Như Lai Tạng học phái

Ba học phái này quy thành hai phái chính là:

Tư tưởng tính không gọi là phái Trung Quán
Tư tưởng hữu, có Duy thứcDuy tâm, Duy thứcDu Già phái, còn Duy tâmNhư Lai Tạng phái

2.2. Phật giáo từ Ấn Độ truyền lên phương bắc

Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang phương bắc chia làm hai hệ thống đó là: vùng văn hoá dân tộc Hán ở Trung Nguyên Trung Quốc và vùng văn hoá dân tộc Tây Tạng, Mông Cổ vùng biên cương Trung Quốc. Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào khoảng năm sáu trăm mười bảy (617) tây lịch. Do hai vị Tăng Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đà và Trúc Pháp Lan dùng ngựa trắng chở kinh đến Lạc Dương. Bộ kinh đầu tiên được dịch sang hán văn là bộ kinh “Tứ Thập Nhị Chương”. Kinh điển chữ hán trải qua quá trình phiên dịch trước tác hơn một ngàn năm đã hình thành nên Phật giáo của người Hán Trung Quốc. Rồi từ đó Phật giáo Trung Quốc truyền sang các nước lân cận, đầu tiên hết là Hàn Quốc, rồi từ Hàn Quốc truyền sang Nhật Bản, người Nhật sau khi được Phật giáo truyền từ Hàn Quốc sang đã phái nhiều Du học sinh sang Trung Quốc học đạo cầu pháp. Từ thời Tuỳ Đường cho đến Tống Minh. Nhật Bản là nơi duy nhất đã có đủ tất cả tông phái của Trung Quốc truyền sang. Trung Quốc trong thời kỳ pháp nạn, “Tam Vũ Nhất Tông” nhiều kinh điển sau đó đã không còn nhưng đã được Phật giáo Nhât Bản giữ gìn nguyên vẹn, đây là công đức không nhỏ. Ngoài Hàn Quốc, Nhật BảnPhật giáo Đại thừa Trung Quốc còn được truyền sang Việt Nam.

Phật giáo Trung Quốc có mười tông phái gồm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Tiểu thừa có hai tông phái: Câu xáThành Thật tông. Sau này Câu xá tông xác nhập vào Duy thức tông. Thành Thật tông nhập vào Tam Luận tông, nên chỉ còn lại là tám tông phái Đại ThừaThiên Thai tông, Tam Luận tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tôngPháp Tướng tông. Trong tám tông phái này cho đến nay chỉ có Thiền và Tịnh Độ tông là phát triển mạnh nhất. Trên thực tế đa phần các chùa ở Trung Quốc điều thuộc Thiền tông, nhưng chỉ tu Thiền thôi mà không niệm Phật thời rất ít. Do đó đã hình thành nên pháp môn Thiền Tịnh song tu.

Thiên Thai tông, Duy thức tông, Hoa Nghiêm tông chuyên về nghiên cứu học vấn chùa viện và đồ chúng rất ít. Tất cả những người xuất gia điều phải thọ giới, nhưng hiện nay không có quy định là chỉ có chùa thuộc Luật tông mới được phép truyền giới. Những vị xuất gia chỉ chuyên trì luậthọc luật còn rất ít. Trước năm 1949 ở Trung Quốc Đại Lục chùa thuộc Luật tông không còn nhiều chỉ có vài chùa mà thôi.

Mật tông truyền vào Trung Quốc vào đời nhà Đường, sau đó từ Trung Quốc truyền sang Nhật và từ đó về sau Mật tông không còn có ở Trung Quốc nữa. Người Trung Quốc vì sao không thích Mật tông? Có thể là do ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia cho những quan niệm chú lực, thần lực gia trì trong Mật tông là những hiện tượng dị thường nên trong khu vực văn hoá Hán ngữ Trung Quốc Mật tông không thể thịnh hành được.

Đến thế kỷ thứ 7 một đợt truyền bá nữa của Phật giáo Đạt thừa từ Ấn Độ truyền sang phương bắc, đầu tiên hết truyền đến Tây Tạng, sau đó truyền sang Mông Cổ. Đây là Phật giáo thuộc khu vực văn hoá Tạng Mông. Vào thời kỳ đó Mật tông đang rất thịnh hànhẤn Độ, sau khi truyền vào Tây Tạng từ từ đã phù hợp với nhu cầu của người dân Tây Tạng đồng thời kết hợp với Tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc vùng núi Tây Tạng hình thành nên Mật tông Tây Tạng ngày nay. Mật tông vốn là một nhánh của hệ thống Phật giáo Duy tâmẤn Độ.

2.3 Phật giáo từ Ấn Độ truyền xuống phương nam

Năm hai trăm bốn mươi (240) trước Tây lịch Phật giáo từ Ấn Độ truyền xuống phía nam như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, một số nước Đông Nam Á khác như Lào, Cam Pu Chia, Việt Nam. Phật giáo truyền xuống phương nam thuộc Thượng Toạ Bộ. Vì các nước này vốn không có Tôn giáo cao cấp khác, cũng không có tư tưởng văn hoá triết học lớn, nên khi Phật giáo truyền đến thời không có sự thay đổi lớn, nên mang đậm nét màu sắc Nguyên thuỷ của Phật giáo hơn.

2.4 Phật giáo truyền sang Âu Mỹ và khắp thế giới

Phật giáo đầu tiên được truyền sang Âu Mỹhệ thống Phật giáo Nam truyền do các giáo sĩhọc giả phương tây đã theo chân các thế lực chính trị đến các vùng đất thuộc địa ở Tây Nam Á và Đông Nam Á, họ tiếp xúc với Phật giáo ở các nơi đó và đem kinh điển Phật giáo dịch sang tiếng các nước Âu Mỹ như công trình phiên dịch “Thế giới Phật giáo Thánh Điển” dịch từ kinh điển tiếng Pali của Nam Truyền.

Thứ đến là Thiền của Phật Giáo Nhật Bản được truyền sang Âu Mỹ. Phật giáo của Nhật Bản cũng có nhiều tông phái, trong đó Tịnh Độ Chân tôngNhựt Liên Tông đã trở thành Tôn giáo riêng của Nhật Bản, duy chỉ có Thiền tông của Nhật Bản vẫn còn giữ được phong cách của Phật giáo truyền từ Trung Quốc sang. Do vậy người Âu Mỹ đã tiếp nhận Thiền của Nhật Bản. Người có công lao truyền bá Thiền của Phật giáo Nhật BảnThiền Sư Suyuki lúc đầu Thiền Sư Suyuki đã giảng về Thiền ở trường Đại học Co Lum Bia, sau đó tư tưởng Thiền của Ngài đã được truyền bá ở Mỹ và Âu Châu. Dần Dần đã có nhiều vị Thiền Sư Nhật Bản khác đến thành phố San-phan-xi-cô rồi đến miền Đông và hiện nay đã truyền đến miền Trung và Tây nước Mỹ cũng như một số nước ở Âu Châu.

Thứ ba là Phật giáo Mật tông Tây Tạng theo làn sóng di dân tị nạn của dân Tây Tạng sang Ấn Độ. Lúc đó Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa theo mấy chục nghìn vị Lạt Ma trẻ tuổi đã được giáo dụcđào tạo rất quy củ từ nội điển, pháp tu đến ngoại ngữ, sau đó các vị này đã cùng dân Tây Tạng đến khắp các nước trên thế giới. Những vị Lạt Ma này có năng lực thích ứng và khả năng truyền đạt rất lớn vì họ được đào tạo rất kỷ càng và có hệ thống từ thấp đến cao, cả nội điển, ngoại điển lẫn pháp tu. Rồi cùng với ảnh hưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma họ đã xây dựng nên những Trung tâm Phật giáo Tây Tạng rất lớn trên khắp các nước Âu Mỹ và đem Phật giáo truyền bá mạnh mẽ khắp các nước Phương Tây.

Một hệ thống truyền bá Phật giáo ở Phương Tây nữa cũng phải đề cập đến là Phật giáo Việt Nam, sau năm 1975 cho đến nay cũng đã có mặt ở hầu khắp các nước Âu Mỹ nơi có cộng đồng người Việt Nam sinh sống.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32614)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6440)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11097)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30234)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30315)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7886)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12040)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12591)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34461)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10629)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10390)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10595)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10345)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12974)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21647)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12534)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16398)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11964)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16130)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16108)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11911)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12517)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14866)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14386)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20544)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14234)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17470)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13859)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11910)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant