Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương III: A Tỳ Đạt Ma Dự Tưởng Phật Truyện

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12057)
Chương III: A Tỳ Đạt Ma Dự Tưởng Phật Truyện


Chương III: A Tỳ Đạt Ma Dự Tưởng Phật Truyện

Như đã được trình bày ở trên, về Phật truyện, có rất nhiều ký lục. Về những điểm tường tận thì trong các ký lục đó tuy có rất nhiều chỗ không có nhất trí, nhưng về đại cương thì tài liệu được truyền lưu giữa Nam và Bắc Phương cũng có nhiều điểm nhất trí. Vả lại, những tài liệu ấy đã được các bộ phái Tiểu thừa công hận là cột trụ của Phật truyện, vì thế, ở đây ta cần phải nói qua về Phật truyện của A-Tỳ-Đạt-Ma. Mà tài liệu căn cứ chủ yếu là Nhân duyên đàm bản sinh kinhtham chiếu thêm những tài liệu khác để tường thuật nhưng vẫn phải lấy đề mục của A-Tỳ-Đạt-Ma làm trung tâm.

Trong Nhân-duyên-đàm, Phật truyện được chia thành ba thời kỳ: 1- Viễn kỳ, 2- Trung kỳ, 3-Cận kỳ. Viễn kỳ nói rõ sự kinh lịch của Phật từ bốn a-tăng-kỳ trăm nghìn kiếp về trước cho đến khi thành vị nhất-sinh-bổ-xứ ở trên cung trời Đâu Suất; Trung kỳ kể lại việc từ cung trời Đâu Suất giáng sinh làm thái tử. Tất-đạt-đa, rồi xuất giathành đạo; Cận kỳ thuật từ khi thành đạo bắt đầu thuyết pháp cho đến khi nhận Kỳ-viên-tinh-xá; còn sự tích từ đây đến khi nhập Niết-bàn thì trong nhân-duyên-đàm không nói đến. Như vậy, bộ phận còn lài này phải là nhiệm vụ của Cận kỳ. Sau đây, tôi tưởng nên thay đổi thông lệ trên một chút mà chỉ chia ra hai thời kỳ để khảo sát bộ phận chủ yếu của Phật truyện. 

I- SỰ KINH LỊCH CỦA BỒ TÁTQUÁ KHỨ.

Cách đây bốn A-tăng-kỳ và trăm nghìn kiếp về trước (Bắc-Phương lấy ba a-tăng-kỳ trăm nghìn kiếp trước làm thông lệ), tại A-ma-la-ngõa có người Bà-la-môn tên là ThiệnTuệ, vì nhận thấy đời là vô thường nên xuất gia tu đạo. Thiện Tuệ đến Đản-ma-ca trong Tuyết Sơn tu thiền định để nhập Niết bàn. Song, lúc đó Phật Nhiên Đăng (Dipankara, cũng gọi là Đĩnh-Quang, Phổ-Quang, Định-Quang) xuất hiện để thuyết pháp độ sinh, Thiện Tuệ bèn bỏ ý định nhập Niết bàn mà một mặt muốn cứu độ hết thảy chúng sinh, mặt khác quyết tu hành thành Phật. Thiện Tuệ trọn đời thờ Phật Nhiên Đăng và cuối cùng được Phật thụtrải qua bốn A-tăng-kỳ trăm nghìn kiếp sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca. Đó là khởi đầu các kiếp làm Bồ tát của đức Phậtquá khứ, Bồ tát có nghĩa là tìm cầu Bồ đề (trí tuệ) mà cái điều kiện chủ yếu của Bồ tát hạnh là phải quên, vì người, nghĩa là, lấy việc “trên cầu Bồ đề, dưới độ chúng sanh” làm tư cách. Nói cách khác, đó là danh hiệu của tu hành cầu thành Phật. Sau khi được thụ ký, Bồ tát đã trải qua nhiều đời kiếp sinh vào các loài hữu tình để hoàn thành những hạnh nguyện của mình: đó tức là những truyện về Bồ tát trong Bản-sinh-đàm. Có khi Bồ tát sinh làm Chuển-luân-thánh-vương, khi thì làm ngư phụ, cũng có khi làm vượn, loài thỏ, v.v… tất cả sự kinh lịch biến hình đó rốt cục cũng chỉ là để hoàn thành hạnh nguyện “trên cầu Bồ đề, dưới cứu độ chúng sinh” mà thôi. Tuy nhiên, trong quá trình đó,cũng có khi mang thân phàm phu phiền não và, điều này, đến A-Tỳ-Đạt-Ma đã trở thành một vấn đề nghị luận. Song, về mặt pháp tướng, có điều cần chú ý là: trong các cảnh giớithân hình, Bồ tát tuy nỗ lực tu hành vạn thiện, nhưng công hạnh đặc biệt của ngài thì được thâu tóm vào cái gọi là “Mười ba-la-mật”. Lại nghĩa, trong khoảng thời gian bốn a-tăng-kỳ trăm nhìn kiếp ấy, Bồ tát đã được gặp và cúng dàng vô số Phật, nhưng mối quan hệ thâm thiết thì chỉ có hai mươi bốn đức Phật mà thôi. Về mười ba-la-mật thì trong Bản-sinh-đàm có nói đến ở nhiều chỗ, nhưng, về hai mươi bốn Phật thì chỉ được ghi chép trong Phật Sử P.T.S. của Phật-đà-vương-sa.

Mười ba-la-mật là: 1- Bố-thí-ba-la-mật; 2- Giới-ba-la-mật; 3- Xuất-ly-ba-la-mật; 4- Trí-tuệ-ba-la-mật; 5- Tinh-tiến-ba-la-mật; 6- Nhẫn-nhục-ba-la-mật; 7- Chân-thực-ba-la-mật; 8- Quyết-định-ba-la-mật; 9- từ-bi-ba-la-mật; 10- Xả-ba-la-mật (trong Bồ-đề-tư-lương-luận của Long Thụ cũng có kể đến mười ba-la-mật, nhưng hơi khác với danh số trên đây).

Bố-thí-ba-la-mật nghĩa là hỷ xả hết thảy gia tài trân bảo cho đến cả vợ conbản thân mình cũng thí xả vì một đích là cầu Bồ đề. Giới-ba-la-mật là bảo toàn giới hạnh. Xuất-ly-ba-la-mật là xa lìa thế gian. Trí-tuệ-ba-la-mật là bồi dưỡng trí phán đoán chính xác. Tinh-tiến-ba-la-mật là nổ lực làm việc thiện. Nhẫn-nhục-ba-la-mật là nhẫn nại chịu đựng. Chân-thực-ba-la-mật là trong bất kỳ trường hợp nào đều nói thật, không bao giờ dối trá. Quyết-định-ba-la-mật là quyết đoán một cách bình tĩnh. Từ-bi-ba-la-mật là thương yêu hết thảy chúng sinh. Xả-ba-la-mật là luôn luôn giữ tâm bình đẳng. Làm trọn vẹn tất cả những đức mục trên đây gọi là ba-la-mật, vì chữ parami hay paramita có nghĩa là hoàn toàn. Lấy sự phát tâm từ thời đại Thiện Tuệ làm khởi điểm đến thời gian cuối cùng an trụ nơi cung trời Đâu Suất, trong khoảng bốn a-tăng-kỳ trăm nghìn kiếp sinh tử thật ra chỉ là những giai đoạn hoàn thành mười ba-la-mật này: ít ra đây cũng là quan niệm về Bồ tát của nhà ký thuật Phật truyện. Còn hai mươi bốn vị Phật mà trong thời gian đó Bồ tát được gặp và thân cận cúng dàng, theo Phật-đà-vương-sa là những vị sau đây:

1- Nhiên Đăng Phật, 2- Kiều-Trần-Như, 3- Cát Tường, 4-Thiện-ý-Tu-Ma-Da, 5- Ly-Bà-Đa, 6- Du-Tỳ-Đa, 7- Anomadassi, 8- Hồng-Liên-Hoa, 9- Na-La-Đà, 10- Thượng-Liên-Hoa, 11- Thiện Tuệ, 12- Thiện Sinh, 13- Piyadassi, 14- Atthadassi, 15- Dhammadassi, 16- Tất-Đạt-Da, 17- Để Sa, 18- Bổ Sa, 19- Tỳ-Bà-Thi, 20- Thi Khí, 21- Tỳ-Xá-Bà, 22- Câu-Lưu-Tôn, 23- Câu-Na-Hàm, 24- Ca Diếp.

Nên chú ý, trên đây là thứ tự do Nam-Phương truyền lưu, có điểm không nhất trí với sự lưu truyền của Bắc-Phương. Nghĩa là bên Bắc-Phương cũng có những truyền thuyết về chư Phật, nhưng ngoài điểm tương đồng lấy Phật Nhiên Đăng là tối sơ và năm vị Phật từ Tỳ-bà-thi trở xuống ra, còn các vị khác chưa chắc đều giống như thuyết trên đây của Phật-dà-vương-sa (xen bài tựa trong cuốn P.T.S. Buddhavamsa, p. V,VII, của Richard Morris). Thuyết này nguyên là một hệ phổ thần thoại nên sự lưu truyền có nhiều chỗ bất đồng, điều đó tưởng cũng không có gì là lạ. Tóm lại, Nam, Bắc-Phương đều nhất trí ở điểm là thừa nhận có nhiều Phật khác trước Phật Thích Ca. Trong Kỳ-na-giáo (Jainism), trước vị Khai tổ Đại Hùng cũng lập nên hai mươi bốn vị tổ khác có lẽ cùng thuộc thuyết này.

Như vậy, sự thực chứng thể nghiệm giáo pháp bao hàm cái phổ biến tính Phật đại khái phải cầu ở quá khứ hay sao? Vấn đề này sau đến A-Tỳ-Đạt-Ma đã trở thành đề mục luận cứu về những sứ mệnh và tính chất dị đồng của Phật, và chính đã trở thành vấn đề thần học, đó là điểm trước hết chúng ta cần phải ghi nhận. Do đó, ở đây, ta lại cần phải luận cứu qua xem vấn đề truyện ký của chư Phật như thế nào, vì đây là vấn đề cần phải so sánh trong Phật sử của Phật-đà-vương-sa, tiểu sử của tất cả hai mươi bốn vị Phật đều được ghi chép sơ lược. Đều đáng chú ý là trong Đại-bản-kinh, Trường-a-hàm (Đại-Chính, I, tr. 1, phần giữa), truyện Phật Tỳ-bà-thi rất rõ ràng. Vì trong Trường-a-hàm cũng có đủ hai mươi bốn vị Phật, nhưng đặc biêt là truyện Phật Tỳ-bà-thi không những được ghi một cách rất tường tận mà nó còn có quan hệ rất mật thiết với truyện Phật Thích-Ca hiện tại.

Phật Tỳ-bà-thi ra đời cách nay đã chín mươi mốt kiếp, lúc đó người thọ tám vạn bốn nghìn tuổi. người thuộc dòng Sát-đế-lỵ, phụ vương tên là Bàn-đầu, mẫu hậu là Bàn-đầu-bà-đề, và thủ đô cũng tên là Bàn-đầu-bà-đề. Sau khi tu hành, Tỳ-bà-thi ở cung trời Đâu-Suất, thấy thời gian đã đến, liền từ thiên cung thác thai theo hông bên hữu của Vương phi Bàn-đầu-bà-đề. Thân thể mẫu hậu rất an tường, trong thai hoàn toàn thanh tịnh, tất cả các căn đều đầy đủ. Sau khi đủ ngày tháng, Bồ tát Tỳ-bà-sa, từ bên hông hữu mẹ xuất sinh và ngay lúc đó đã đi bảy bước mà nói rằng: “Trên trời, dưới trời chỉ có ta là tôn quý; ta sẽ độ cho chúng sinh thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử”.

Bồ tát sinh ra đã đủ ba mươi hai tướng (chi tiết, xin xem D.H. tr. 17-19 và Đại-bản-kinh chữ Hán). Một vị tiên xem tướng rồi nói: “Nếu nối ngôi vua sẽ là Chuyển-luân-vương, còn nếu xuất gia tu hành thì sẽ thành một vị Phật”. Khi lớn lên, ra chơi bốn cửa thành, thấy bốn cảnh già, bệnh, chết và tu hành liền có ý tưởng xuất ly, và năm hai vạn chín ngàn tuổi, sau khi có một người con, bèn bỏ nhà đi tu đạo. Sau khi xuất gia, đến một nơi yên tĩnh ngồi để quan sát mười hai nhân duyên (trong văn Ba-li chỉ nói đến mười hai nhân duyên thôi) và cuối cùng đã thành chính giác. Sau đó, nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, bắt đầu thuyết pháp tại vườn Lộc-Dã trong thành Đầu-bàn-bà-đề. Ở đây độ cho nhiều đệ tử và phái đi các nơi để truyền đạo, và sáu năm sau lại trở vể Bàn-đầu-bà-đề để thống nhất.

Trên đây là nhân duyên của Phật Tỳ-bà-thi trong Đại-bản-kinh hầu như toàn bộ đều nhất trí với truyện Phật Thích Ca. Truyện Phật Tỳ-bà-thi tuy được coi là phỏng theo truyện ký của đức Phật, nhưng, trái lại, theo Âu-độc-phú-lan-cấp-thị, truyện ký của Phật Thích Ca sau này lại được ứng dụng theo thần thoại của Phật Tỳ-bà-thi. Ở đây, chúng ta không nên quyết đoán đâu là sự thật, thế nhưng có điều ta không thể phủ nhận được là giữa truyện Phật Tỳ-bà-thi và truyện Phật Thích Ca có một mối quan hệ rất mật thiết.

Tóm lại, trong những kiếp làm Bồ tát như đã nói ở trên, Phật Thích Ca đã gặp được nhiều Phật, mà mỗi lần gặp một vị Phật đều hy sinh tự kỷ để cúng dàng đức Phật đó, nhận chịu sự giáo hóa của ngài và con số đó không thể kể hết. Cứ như thế Bồ tát Thiện Tuệ đã trải qua bốn a-tăng-kỳ trăm nghìn kiếp, dần dần tiến đến chính-đẳng giác và thành một vị nhất-sinh-bổ sứ trên cung trời Đâu Suấttối hậu thân của ngài.

2- TỪ ĐẢN SINH ĐẾN NIẾT BÀN.

Bồ tátcung trời Đâu Suất được mấy nghìn tuổi thì thời gian thành Phật đã đến. Lúc đó, trên thiên cung, các thiên sứ tuyên ngôn về sự xuất hiện của Phật, nói: “Từ nay đến một ngàn năm sau, ở cõi này có một vị Phật ra đời”. Nghe xong, chư thiên tụ họp lại để thỉnh cầu Bồ tát sớm thành Phật. Lúc đó, Bồ tát liền dự liệu về thời gian giáng sinh, Châu, quốc độ, chủng tộcthân mẫu, và sau đã quyết định thác thai vào hoàn hậu Ma Da, vương phi của vua Tịnh Phạn, dòng Sát-đế-lị thuộc cõi Diêm-phù-đề. Để thích ứng với điều đó, hoàng hậu Ma Da đã thấy một giấc mộng đẹp. Vào một buổi cuối mùa hạ, sau khi hoàng hậu đã cử hành bá thí cho mọi người, lui về yên nghỉ, thì thấy bốn vị thần đến khiêng giường hoàng hậu đi về phía Tuyết sơn, đặt dưới gốc cây Sa la rồi mời hoàng hậu vào tắm trong ao A-nậu-đạt. Lúc đó, một con voi trắng, vòi quấn vào một bông sen trắng đến lạy hoàng hậu rồi theo đường hông bên hữu mà vào thac thai. Hai hôm sau, nhà vua cho triệu thầy tướng vào cung để hỏi vể giấc mộng kỳ lạ đó. Thầy tướng cho đây là điềm mang thai và người con sau này sẽ là một vị Chuyển-luân-vưong, nếu không, thì sẽ thành một vị Phật.

Từ đây trở đi, những điểm phảng phất giống như truyện Phật Tỳ-bà-thi cũng được thừa nhận là sự hiển hiện của sự thực lịch sử: đó là truyện Thái tử mà cả Nam và Bắc-Phương đều lưu truyền. Nghĩa là, sau khi thụ thai, hoàng hậu cảm thấy thân tâm rất nhẹ nhàng, thấy Bồ tát trong thai các căn đều đầy đủ, trong thai cũng không có gì ô uế. Khi đủ mười tháng, hoàng hậu phải về cha mẹ tại thành Thiên Chỉ để sinh; nhưng mới đi được nửa đường đến khu vườn Lâm-tì-ni thì sinh Thái tử. Lúc ấy các thiên sứ hiện xuống dùng tay đỡ lấy Thái tử, Long vương thì phun nước cam lộ tắm cho Thái tử. Thái tử liền nói lên mấy câu mà ngày nay chúng ta đều biết là: “Sinh tử đến đây đã hết. Ta là đệ nhất; ta là tối thượng”. Song truyền thuyết cho rằng Thái tử sinh từ hông bên phải của hoàng hậu thì không được nhất trí. Trong Nhân-duyên-đàm tuy không nói rõ, nhưng trong các bản dịch Hán văn được lưu truyền, các bản cổ thì không có mà các bản mới thì lại có. Tiên A-di-ta xem tướng rồi nói rằng sau sẽ là Chuyển-luân-vương nếu nối ngôi vua, và sẽ thành một vị Phật nếu xuất gia tu đạo: điểm này rất giống với truyện Tỳ-bà-thi. Tính tình Thái tử rất trầm tịch, ngay từ thủa nhỏ đã tỏ ra nhiều suy tư. Vua cha thấy thế rất lo âu bèn sai thiết lập cho Thái tử ba tòa cung điện cho thích hợp ba mùa rồi tuyển cho vài trăm cung nữ ngày đêm hầu hạ mong Thái tử quyến luyến mà ở lại cung điện. Song, sau khi ra chơi bốn cửa thành thì ý tưởng xuất gia đã lởn vởn trong đầu óc Thái tử, và sau khi La-hầu-la ra đời thì Thái tử quyết định rời bỏ hoàng thành. Lúc đầu theo hai ông tiên A-la-la-dà-ma-la và Uất-đà-la-la-ma lúc đó đang tu ở gần nước Ma-kiệt-đà, nhưng ít lâu sau vì không được thỏa mãn nên lại bỏ hai ông này mà đi theo ông Ưu-lâu-tần-loa để tu khổ hạnh. Trong thời gian này, Thái tử có năm người bạn cùng theo tu với ngài. Sau sáu năm tu khổ hạnh không thấy có kết quả, Thái tử liền bỏ khổ hạnh rồi nhận sự cúng dàng của Thiện-sinh-nữ để khôi phục lại sức khỏe, từ đó chỉ chuyên tinh tiến tu luyện tinh thần. Năm người bạn cùng tu thấy thế choThái tử đã thoái chí liền bỏ Thái tử mà đi. Từ đây đến ngày thành đạo, Thái tử đã dùng mọi hình thức chiến đấu ma vươngcuối cùng đã đạt đến thắng lợi tuyệt đối. Vào một đêm, lúc canh một chứng được “túc-mệnh-thông”, thấy suốt các kiếp quá khứ; canh hai được “thiên-nhãn-thông”, thấy rõ ba cõi, và cuối cùng, lúc canh ba thì chứng được trí “duyên khởi”, quán thông thời giankhông gian, biết rõ pháp tắc sinh khởi của vạn, đến đây đã thành bậc đại giác tức là thành Phật, thành Như lai. Từ đây, Phật còn lưu lại gốc cây Bồ đề và đổi chỗ ngồi bốn lần để hưởng “pháp hỷ thiền duyệt” (các học giả của A-Tỳ-Đạt-Ma Ba-li bảo rằng trong thời gian này Phật ngồi để suy nghĩ về A-Tỳ-Đạt-Ma). Đức Phật tự nghĩ cái pháp mà ngài liễu ngộ quá sâu xa, người thường khó có thể hiểu được, nên tốt hơn cứ nhập Niết-bàn ngay tại đó. Nhưng lúc ấy, Phạm-thiên hiện rathỉnh cầu Phật truyền đạo độ sinh và Phật đã nhận lời. Phật liền nghĩ đến năm người bạn thân ngày trước hiện đang tu tại vườn Lộc-dã và đặc biết đến đấy để độ cho họ trước. Khi đến Lộc-Dã, Phật bắt đầu nói pháp “Tứ đế” và buổi thuyết này được gọi là “Sơ chuyển-pháp-luân”. Nghe xong, Kiều-trần-như liễu ngộ trước, rồi lần lượt đến bốn người khác là Bà-phả, Bà-đề, Ma-ha-nam và A-thuyết-thị cũng đều liễu ngộ. Đến đây thì Phật, Pháp, Tăng tam bảo đã được hoàn thành và chính đó là nguồn gốc Phật giáo vậy. Sau đó, độ cho một trưởng giả là Gia-Xá và dần dần các đệ tử khác và kể cả Phật cộng tất cả là mười một vị A la hán. Phật liền sai các đệ tử ấy đi các nơi để truyền đạo. Còn chính Phật thì đến khu rừng Ưu-lâu-tần-loa độ cho ba anh em Ca Diếp, rồi vào thành Vương Xá hội kiến vua Tần-tỳ-sa-la và tiếp nhận Trúc Lâm tinh xá. Trong thời gian này độ cho hai vị đại đệ tử là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, từ đó giáo đoàn càng ngày càng hưng thịnh. Ít lâu sau, Phật trở về cố hương là Ca-tỳ-la-vệ gặp phụ vương và Da-du-đà-la, lại tiếp nhận La-hầu-la và các vương tử trong dòng học Thích vào giáo đoàn. Sau lại trở về Ma-kiệt-đà, đến thành Xá vệ thuộc Câu-tát-la nhận sự cúng dâng của trưởng giả Cấp-cô-độc và nhận luôn Kỳ-hoàn-tinh-xá làm căn cứ an trụ. Khi giáo đoàn phát đạt mạnh thì Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) âm mưu phá hoại giáo đoàn, nhưng nhờ nhân cách cảm hóa vĩ đại của Phật, Phật giáo trong thời đại của Ngài đã là một thế lực rất mạnh, không một ai phá nổi. Nhưng, như đã nói ở trên, trừ một vài năm sau thành đạo, còn từ đó về sau, thứ tự niên đại của sự tích Phật rất lờ mờ, bất cứ trong cuốn Phật truyện nào cũng vậy, đều không thấy ghi rõ niên đại của sự tiến triển của giáo đoàn: đó là điều rất đáng tiếc! Đức Phật nhập diệt năm tám mưoi (hoặc bảy mươi chín) tuổi, ba tháng trước khi nhập diệt tuy đã lâm trọng bệnh, nhưng do tinh thần lực Ngài đã tự trị liệu, trong kinh gọi đó là “lưu thọ hạnh” (danh từ “lưu thọ” được dùng trong kinh Du hành, Đại chính, I, tr.17). Sau mùa an cư tại Tỳ-xá-li, cùng A-nan đi thị giả, Phật đi về phía thành Câu-thi-na-già-na của chủng tộc Ma-la, nhận sự cúng dàng của Thuần-đà, rồi lại lâm bệnhcuối cùng đã nhập diệt tại Câu-thi-na-già-la dưới gốc cây Sa-la. Sự tích trong thời gian này được ghi chép một cách khá rõ ràng trong kinh Du hành của Trường-a-hàm từ quyển hai đến quyển tư (Đại Chính, I, tr.11-30). Trong kinh Du hành nói về quá trình nhập diệt như sau: trước hết vào Sơ thiền, đến Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, lại qua Tứ-vô-sắc định cho đến diệt thụ tưởng định. A nan cho thế là Phật đã nhập diệt, nhưng, sau đó, Phật từ diệt định trở xuống định phi tưởng, phi phi tưởng, rồi lần lượt theo thứ tự xuống Sơ thiền, lại tiến lên Nhị thiền, Tam thiền, sau cùng vào Tứ thiền và đến đây mới thật nhập đại ban niết bàn (kinh Du-hành, quyển thừ 4. Đại chính, I, tr. 26, giữa; D. vol. II, p. 156).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11594)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11314)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12529)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17939)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11697)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9915)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15303)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14294)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12052)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15275)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11966)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12039)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10572)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13126)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16495)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19584)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12214)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11805)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11911)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11806)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11595)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12725)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14468)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12573)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15617)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13570)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12852)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9821)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17952)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11121)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12135)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13002)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12137)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12168)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11411)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14209)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19625)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24531)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10640)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant