Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thứ III: Thế Giới Quan

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12455)
Thiên Thứ III: Thế Giới Quan


Thiên Thứ III: Thế Giới Quan

CHƯƠNG I


TỔNG LUẬN

1- ĐỊNH NGHĨA THẾ GIỚI QUAN

Thế giới quan nói ở đây không ý nghĩa là sẽ luận về bản chất, nguyên nhân thành lập, hay ý nghĩa của thế giới, bởi vì tất cả cái đó đã được trình bày ở thiên thứ hai, trong đề mục Vũ trụ quan rồi. Mà thế giới quan nói ở đây cũng không có ý nghĩa như Weltanschauung hay cosmology, mà là về thế giới khởi nguyên luận, và thế giới hiện tượng luận xem A Tỳ Đạt Ma đã khảo sát như thế nào: đó là vấn đềchúng tôi muốn bàn qua. Có thể nói đây không phải là vũ trụ thực thể luận, mà là vũ trụ hiện tượng luận về mặt sự thực.

2- THẾ GIỚI QUAN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Đối với vấn đề này, như thường lệ, trước hết phải bắt đầu từ thái độ của Phật giáo nguyên thủy. Như đã nói nhiều lần, mục đích của Đức Phật là ở việc "Chuyển mê khai ngộ", nhưng để đạt đến chuyển mê khai ngộ, Đức Phật chủ trương "trước hết phải nhìn thẳng vào sự thực". Nếu không nhìn vào sự thực mà mong cấu tạo thành đối tượng tôn giáo thì không thể bảo là sự khai ngộ chân thật được. Chính do ý nghĩa ấy mà Đức Phật đối với thế giới sự thực, có thế giới quan. Điều này tưởng không cần nói ai cũng hiểu.

Song, có điều chúng ta cần chú ý là: Phật tuy chủ trương như thế, nhưng cái gọi là "như thực tri kiến" của Phật không phải chuyên lấy việc truy cứu sự thực làm chủ, mà là đối với thế giới sự thực phải phê phán giá trị của nó một cách chính đáng. Là vì sự phê phán chính đáng về giá trị của thế giới sẽ trực tiếp cho chúng ta những nguyên lý chỉ đạo cho yêu cầu tôn giáo, còn truy cứu sự thực thì không những rất gián tiếp mà còn có khi vì quá câu nệ vào sự truy cứu ấy mà sao nhãng sự thực tu vốn là nhu cầu tất yếu của tôn giáo. Do ý nghĩa ấy nên Đức Phật tuy chủ trương "nhìn thẳng vào sự thật", nhưng nếu một sự kiện nào không có liên quan trực tiếp đến việc giải thoát mà ta cứ cố lưu tâm chú ý, thì Phật cũng ngăn cản. Thế giới này có biên tế hay không biên tế? Thân, tâm là một hay khác? Người sau khi chếtlinh hồn hay không? Đối với những vấn đề đó Phật không trả lời. Cho nên, đứng về phương diện thế giới quan mà nhận xét thái độ của Phật, thì Phật tuy lấy thế gian làm đối tượng quan sát, nhưng, đối với thế giới vật lý, sinh vật hiện tượng, có thể nói Phật đã không quan tâm mấy. Bởi thế, nếu ai bảo Đức Phật đã luận cứ tất cả sự tượng từ thiên văn, địa lý đến động vật, thực vật, thì, dĩ nhiên, đó là sự hiểu lầm rất lớn.

Nhưng thế giới hiện tượng luận (quan sát về thế giới vật lý, và thế giới sinh vật) của Phật giáo cứu kính đã phát sinh như thế nào? Khi Phật nói về giá trị của thế giới, tuy không phải lấy thế giới sự thực làm mục đích, nhưng có khi không thể tránh khỏi đụng chạm đến nó. Nếu lìa sự thật mà chỉ bàn đến giá trị thì điều đó không thể nào làm được. Cho nên, khi Phật thu dụng thế giới quan đương thời được lưu hành mà nói về núi Tu Di, đề cập đến thuyết Nam diêm phù đề, nói đến địa ngục, quỷ thần v.v... thì hiển nhiên, không nhiều thì ít, đã đụng chạm với vấn đề sự thực, và đó là khởi đầu của sự quan sát về thế giới sự thực của Phật giáo. Điều này tuy có vẻ vụn vặt, nhưng trong các kinh điển được coi là xưa nhất đã thấy rải rác rất nhiều. Có điều đáng tiếc là cho đến nay chúng ta vẫn chưa được biết những điều đó được thu dụng vào thời đại nào? Và thế giới quan được được lưu hành về phương diện nào? Nhưng điều đáng tin cậy nhất là Đức Phật trong khi thuyết minh, thường đã thu dụng thế giới quan ở thời đại Phật, hoặc thế giới quan được lưu hành ở các địa phương khác. Tại sao? Vì chính cả ngay sự thuyết minh đó cũng quyết không phải mục đích của Phật, cho nên không thể cho đó sáng kiến của Phật, cũng vì lý do ấy.

3- THẾ GIỚI QUAN CỦA A TỲ ĐẠT MA

Điều chắc chắnthế giới quan sự thực của Phật giáo nguyên thủy là nói theo học thuật thường thức của đương thời. Do đó, theo ý nghĩa này, thế giới quan của Phật giáo vốn đã cổ kính, lại càng vó vẻ cổ kính hơn, bởi vì tự nó đã chẳng có mấy đặc sắc. Có lẽ thế giới quan sự thực này Đức Phật đã cải tạo ít nhiều quan niệm đương thời để biến nó thành của Phật giáo, vì đặc sắc của Phật giáo vốn là thu dụng những tư tưởng thời bấy giờ rồi biến đổi để trở thành một trào lưu Phật giáo. Nhất là đến các vị luận sư của A Tỳ Đạt Ma dần dần đã coi thế giới quan này là một vấn đề tự thân cần phải luận cứu, và cũng đã dần dần biến cải nó thành một trào lưu Phật giáo.

Chủ ý của Phật giáo từ xưa vẫn cho rằng ta có thể điều hòa giữa thế giới quan luân lý tâm lýthế giới quan sự thực. Nhưng một khi đã tiến đến giai đoạn được cải tạo thì tất cả không còn bị hạn chế trong cái thế giới quan nhất ban của đương thời nữa. Tức là, ngoài thế giới quan của Bà La Môn giáo, của Kỳ Na giáo, cuối cùng người ta đã thấy thế giới quan của Phật giáo cũng được thành lập thành một dòng riêng. Do ý nghĩa ấy, khi nghiên cứu sự phát đạt của thế giới quan nhất ban của đương thời, mặt khác, đồng thời, lại phải cố gắng tìm hiểu cái quá trình và nguyên do phát đạt của chính Phật giáo nữa.

4- TÀI LIỆU VỀ THẾ GIỚI QUAN

Song, những tài liệu liên quan đến sự phát đạt của thế giới quan Phật giáo như thế nào? Dĩ nhiên, nếu đề cập đến tất cả thì rất nhiều, ở đây chúng tôi chỉ nêu lên những tài liệu chủ yếu mà thôi.

Trước hết là tài liệu rải rác trong A Hàm Bộ, nhất là những tài liệu nhất trí giữa Hán Văn và Ba Li. Những tài liệu này tuy không thể bảo là nguyên thủy, nhưng ít ra chúng cũng có thể được coi là gần với nguyên thủy. Nếu sưu tập thêm, thêm ngoài Trường A Hàm, Trung A Hàm ra, trong Tạp A HàmTăng Nhất A Hàm cũng có rất nhiều. Nhất là trong A Ân Cô Tha Lạp bằng văn Ba Li hiện có rất nhiều tài liệu (chẳng hạn trong Anguttara I, p. 227 và V, p. 59 v.v... nói: "Một mặt trời, mặt trăng chiếu khắp một thế giới, một nghìn thế giới cũng như thế. Trong nghìn thế giới, có nghìn mặt trời, nghìn mặt trăng, nghìn núi Tu Di, nghìn Diêm Phù Đề, nghìn Câu Đa Ni, nghìn Uất Đan Việt ...). Trước tiên chúng tôi hãy căn cứ theo những tư liệu này để nghiên cứu thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy, nhưng đồng thời, chúng tôi sẽ không quên đem so sánh với thế giới quan đã phát đạt sau này.

Với dụng ý trên đây nên bước thứ hai phải nghiên cứu những tài liệu còn truyền lại trong văn Ba Li. Phạm ngữ và Hán Văn. Tựu trung, về phương diện Ba Li thì chủ yếu là Bản Sinh Đàm (hay Bản Sinh Kinh) và phần chú thích của nó, đây tức là tài liệu Bản Sinh Đàm (VI, p. 125, và p. 432), hoặc là tài liệu trong A Tha Sa Li Ni v.v... Về phương diện Phạm ngữ thì có Thiên nghiệp thí dụ, Đại Sự (tham chiếu Kirfel; Die Kosmographie der Inder S.186) v.v... Nhưng tài liệu trọng yếu nhất về vấn đề này là bản Hán dịch Kinh Lâu Thán (kinh Thế Khởi). Bộ kinh này được dịch từ Trường A Hàm, quyển 18 đến 20 (do Phật Đà Da XáTrúc Phật Niệm cùng dịch vào thời Hậu Tần). Những bản dịch khác thì có Khởi Thế Kinh, 10 quyển (do Xà Na Quật Đa dịch đời Tùy); Thế Nhân bản kinh, 10 quyển (do Đạt Ma Cấp Đa dịch), cũng đời Tùy). Tất cả có các phẩm sau đây.

1. Diêm Phù Đề Châu phẩm; 2. Uất Đan Việt phẩm; 3. Chuyển Luân Thánh Vương phẩm; 4. Địa ngục phẩm; 5. Long Điểu phẩm; 6. A Tu Luân phẩm; 7. Tứ Thiên Vương phẩm; 8. Đao Lợi Thiên phẩm; 9. Tam Tai phẩm; 10. Chiến Đấu phẩm; 11. Tam Trung Kiếp phẩm; 12. Thế Bản Duyên phẩm.

Tất cả những tài liệu trên đây được thành lập vào thời gian nào thì điều này vẫn chưa được rõ lắm, nhưng có điều chắc chắn chúng là những sản vật của thời kỳ mà nền thần học của A Tỳ Đạt Ma đã được xây dựng.

Trong lần kết tập thứ tư, những kinh điển thuộc loại này được phụ vào Trường A Hàm (lúc đầu, kinh văn về thế giới quan đích xác đã thuộc một bộ loại, điều này cứ xem có hai bản dịch khác cũng đủ rõ). Do đấy thế giới quan Phật giáo đã được thống nhất, về hình thức tuy đã nhất định, nhưng nếu đem so sánh nó với những sự tập hợp sau này, thì về nhiều phương diện, nó vẫn chưa được luận cứu đến.

Thế Khởi kinh, về mặt thật chất, tuy là A Tỳ Đạt Ma, nhưng trên danh nghĩa, thì vẫn thuộc Khế Kinh. Tuy nhiên về danh nghĩa, nếu đặt vào địa vị A Tỳ Đạt Ma thì đó chính là "Phật thuyết lập thế A Tỳ Đàm luận (10 quyển, do Châu Đế dịch: Đại Chính 32, trang 173 – 226). Bộ luận này chia các chương thành 25 phẩm đối lại với 10 phẩm trong kinh Thế Khởi. Đó là:

1. Địa Động phẩm: 2. Nam Diêm Phù Đề phẩm; 3. Lục Đại Quốc phẩm; 4. Dạ Xoa Thần phẩm; 5. Lậu Xá Kỳ Lợi Tượng Vương phẩm; 6. Tứ Thiên Hạ phẩm; 7. Số Lượng phẩm; 8. Thiên Trụ Xứ phẩm; 9. Hoan Hỷ Viên phẩm; 10. Chúng Xa Viên phẩm; 11. Ác Khẩu Viên phẩm; 12. Tạp Viên phẩm; 13. Ba Lợi Dạ Đa Viên phẩm; 14. Đề Đầu Lại Tra Thành phẩm; 15. Tỳ Lưu Lặc Xoa Thành phẩm; 16. Tỳ Lưu Bác Xoa Thành phẩm; 17. Tỳ Sa Môn Thành phẩm; 18. Thiên Phi Thiên Chiến Đấu phẩm; 19. Nhật Nguyệt Hành phẩm; 20. Vân Hà phẩm; 21. Thụ Sinh phẩm; 22. Thọ Lượng phẩm, 23. Phẩm Địa Ngục (trong đó có 10 phẩm nói 11 địa ngục); 24. Tiểu Tam Tai phẩm (trong đó lại có Tật Dịch Đao Binh và Cơ Ngã Ba phẩm); và 25. Đại Tam Tai phẩm (hỏa tai).

Nội dung các phẩm trên đây là lấy thế giới hiện tượng luận làm nền tảng để nói về những hoạt động của các loài hữu tình trong đó. Tuy mang cái tên là "Phật thuyết" nhưng thật ra nó đã được các vị luận sư của A Tỳ Đạt Ma sau này chỉnh lý, do đó, chắn chắn ta có thể coi nó đã được chế tác theo kinh Thế Khởi.

Thế giới quan của Phật giáo, đến đây, đã dần dần được chỉnh lý, chế tác và đến một trình độ nào đó, được xử lý như một đề mục độc lập để rồi cuối cùng đã được thống hợp thành một phân khoa trong các A Tỳ Đạt Ma luận thư. Trước hết là Thi Thiết luận đã làm việc ấy. Thi Thiết luận bản Hán dịch tuy chỉ có một phẩm Nhân Thi Thiết gồm 7 quyển (Đại chính, 26), nhưng ở Tây Tạng, ngoài Nhân Thi Thiết ra còn có Nghiệp Thi Thiết và Thế Gian Thi Thiết ba phẩm. Trong phần phụ lục của hai phẩm đầu, De la Valleepoussin giới thiệu tác giảThế Thân và Xưng Hữu. Phẩm Thế Gian Thi Thiết tức là luận về Thế giới quan mà chủ yếu là căn cứ vào kinh Thế Khởi trong Trường A Hàm và lấy đó làm phong thái luận cứu của A Tỳ Đạt Ma. Điều này đã được thừa nhậnthời đại Long Thụ, cho nên trong luận Trí Độ quyển 2 có nói như sau:

"Có người cho rằng trong sáu phần A Tỳ Hàm thì Phân Biệt Thế Xứ Phận thứ 3 gồm 8 phẩm (Kinh Lâu Thán cũng đặt vào phần thứ 3 trong sáu phần) là do Mục Kiện Liên trứ tác (Đại Chính, 25, trang 70, thượng)".

Nghĩa là, trong sáu bộ A Tỳ Đạt Ma (Lục Túc Luận của Hữu Bộ?), Thi Thiết Luận được đặt vào hàng thứ 3, mà phần chú thích thì căn cứ vào Kinh Lâu Thán, cho nên, về điểm này, đã ám chỉ luận Thi Thiết đã được thoát thai từ kinh Thế Khởi trong Trường A Hàm. Vả lại, trên thực tế, đem đối chiếu giữa Thế Khởi Kinh và Thế Gian Thi Thiết, người ta thấy có rất nhiều điểm nhất trí: đó là một sự thật không thể phủ nhận. Điều này chúng tôi đã trình bày qua trong "A Tỳ Đạt Ma Luận Nghiên Cứu", thiên thứ 3.

Về Hán dịch, luận Thi Thiết tuy chưa được truyền một cách toàn thể, nhưng tại Ấn Độ, nó mang một ý nghĩa rất trọng yếu, không những là một trong Lục Túc luận của Hữu Bộ, mà đối với các bộ khác, nó cũng rất được coi trọng. Cho nên, Thế Gian Thi Thiết luận đã được coi như một quyền uy về thế giới quan của Phật giáo. Nhất là trong Hữu Bộ Tôn, tức là trong các luận bộ khác, cũng đề cập đến thế giới quan (chẳng hạn như tập Tập Dị Môn Túc luận, quyển 11, thuyết minh về ngũ thú, quyển 17, thuyết minh về Thất Thức Trụ, quyển 19, thuyết minh về Cửu Hữu Tình Cư; rồi đến Pháp Uẩn Túc luận, quyển 10 đến 12 thì có Căn phẩm, Đa Giới phẩm, Duyên Khởi phẩm; Và Thức Thân Túc luận quyển 2 đến 3 thì có Bổ Đặc Già La Uẩn; sau hết, Phẩm Loại Túc luận, quyển 6 nói về Dị Sinh Pháp, và quyển 8 thuyết minh về Cửu Hữu Tình Cư, v.v...). Đến khi tập hợp lại thì, về thế giới quan, luận Thi Thiết được coi là đặc biệt trọng yếu. Luận Đại Tỳ Bà Sa, vì là giải thích luận Phát Trí, nên không có chương đặc biệt về thế giới quan. Tuy nhiên, cũng thỉnh thoảng có chỗ nói đến thế giới và, về điểm này, đã lấy tài liệu từ Thế Gian Thi Thiết. Trong luận Pháp Thắng A Tỳ Đàm Tâm tuy không có chương nào nói về thế giới, nhưng trong luận A Tỳ Đạt Ma Câu Xá của Thế Thân, vốn là tập Đại Thành của Pháp Thắng A Tỳ Đàm Tâm luận, thì trong chương thứ 3, có lập một phẩm là Thế Gian phẩm mà tôi cho rằng đã phỏng theo thể tài của luận Thi Thiết kể trên. Mà tinh thần phê bình của luận Câu Xá tựa hồ còn triệt để hơn cả tinh thần đó trong Đại Tỳ Bà Sa, và, nếu đem biểu hiện nó vào thế giới quan trong Thế Gian phẩm thì, theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói nó đã đạt đến điểm cao nhất trong các A Tỳ Đạt Ma luận thư. Chính vì thế mà xưa nay hễ cứ đề cập đến thế giới quan của Phật giáolập tức người ta nghĩ ngay đến Thế Gian phẩm trong luận Câu Xá. Biện Duyên Khởi phẩm trong Thuận Chính Lý luận, hoặc Hiển Tôn luận chắc chắn là đã dựa theo những tài liệu trên đây làm nền tảng tiêu chuẩn.

5- SỰ PHÂN LOẠI THẾ GIỚI

Trước khi đi sâu vào đề tài chính, tôi tưởng cần nói qua về phương pháp phân loại thế giới đã.

Trong Phật giáo, thế giới (tức thế gian) có hai nghĩa: một là vật khí thế gian, và một là hữu tình thế gian. Khí thế gian là chỉ nơi cư ngụ của các loài hữu tình, tức thế giới vật khí; còn hữu tình thế gian là chỉ cái tổng thể của sinh vật cư ngụ trong thế giới vật khí này. Hai cái đó tuy vốn không thể rời nhau, nhưng để tiện cho việc quan sát nên chia thành hai loại như thế: đó là cái thông lệ của nền giáo học Phật giáo. Do đó, chúng tôi tưởng cứ theo cách phân loại trên đây để quan sát thế giới quan của Phật giáo cho tiện lợi. Song, thế giới quan của Phật giáo vốn quan sát cái gọi là "Hữu tình thế gian", vì đó là chủ yếu, nên trong Khí Thế Gian luận cũng bao hàm cả Hữu Tình luận: điều này tưỏng không cần nói ai cũng hiểu.

6- SÁCH THAM KHẢO

Khi nghiên cứu về vấn đề này, ngoài những tư liệu đã nói ở trên ra, những sách sau đây cũng là những tài liệu chủ yếu cần tham khảo:

a) Viên Huy, Câu Xá luận tụng sớ, quyển 8 đến 12.

b) W. Kirfel, Die Kosmographie (2te Abschnitt, Die Kosmographie der Buddhisten) 1920 Bonn.

c) Hastings, Encyclopaedia of Religion and Ethics (vol. IV, phương pháp. 129 – 138); Cosmogony and Cosmology (Buddhist) by De a Valleepoussin.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11638)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11118)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11350)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17987)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10171)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15345)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15372)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12690)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19670)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13113)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12672)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11856)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10908)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11639)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13628)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9083)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11486)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19705)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant