Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiên Thứ III: Thế Giới Quan

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12433)
Thiên Thứ III: Thế Giới Quan


Thiên Thứ III: Thế Giới Quan

CHƯƠNG I


TỔNG LUẬN

1- ĐỊNH NGHĨA THẾ GIỚI QUAN

Thế giới quan nói ở đây không ý nghĩa là sẽ luận về bản chất, nguyên nhân thành lập, hay ý nghĩa của thế giới, bởi vì tất cả cái đó đã được trình bày ở thiên thứ hai, trong đề mục Vũ trụ quan rồi. Mà thế giới quan nói ở đây cũng không có ý nghĩa như Weltanschauung hay cosmology, mà là về thế giới khởi nguyên luận, và thế giới hiện tượng luận xem A Tỳ Đạt Ma đã khảo sát như thế nào: đó là vấn đềchúng tôi muốn bàn qua. Có thể nói đây không phải là vũ trụ thực thể luận, mà là vũ trụ hiện tượng luận về mặt sự thực.

2- THẾ GIỚI QUAN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Đối với vấn đề này, như thường lệ, trước hết phải bắt đầu từ thái độ của Phật giáo nguyên thủy. Như đã nói nhiều lần, mục đích của Đức Phật là ở việc "Chuyển mê khai ngộ", nhưng để đạt đến chuyển mê khai ngộ, Đức Phật chủ trương "trước hết phải nhìn thẳng vào sự thực". Nếu không nhìn vào sự thực mà mong cấu tạo thành đối tượng tôn giáo thì không thể bảo là sự khai ngộ chân thật được. Chính do ý nghĩa ấy mà Đức Phật đối với thế giới sự thực, có thế giới quan. Điều này tưởng không cần nói ai cũng hiểu.

Song, có điều chúng ta cần chú ý là: Phật tuy chủ trương như thế, nhưng cái gọi là "như thực tri kiến" của Phật không phải chuyên lấy việc truy cứu sự thực làm chủ, mà là đối với thế giới sự thực phải phê phán giá trị của nó một cách chính đáng. Là vì sự phê phán chính đáng về giá trị của thế giới sẽ trực tiếp cho chúng ta những nguyên lý chỉ đạo cho yêu cầu tôn giáo, còn truy cứu sự thực thì không những rất gián tiếp mà còn có khi vì quá câu nệ vào sự truy cứu ấy mà sao nhãng sự thực tu vốn là nhu cầu tất yếu của tôn giáo. Do ý nghĩa ấy nên Đức Phật tuy chủ trương "nhìn thẳng vào sự thật", nhưng nếu một sự kiện nào không có liên quan trực tiếp đến việc giải thoát mà ta cứ cố lưu tâm chú ý, thì Phật cũng ngăn cản. Thế giới này có biên tế hay không biên tế? Thân, tâm là một hay khác? Người sau khi chếtlinh hồn hay không? Đối với những vấn đề đó Phật không trả lời. Cho nên, đứng về phương diện thế giới quan mà nhận xét thái độ của Phật, thì Phật tuy lấy thế gian làm đối tượng quan sát, nhưng, đối với thế giới vật lý, sinh vật hiện tượng, có thể nói Phật đã không quan tâm mấy. Bởi thế, nếu ai bảo Đức Phật đã luận cứ tất cả sự tượng từ thiên văn, địa lý đến động vật, thực vật, thì, dĩ nhiên, đó là sự hiểu lầm rất lớn.

Nhưng thế giới hiện tượng luận (quan sát về thế giới vật lý, và thế giới sinh vật) của Phật giáo cứu kính đã phát sinh như thế nào? Khi Phật nói về giá trị của thế giới, tuy không phải lấy thế giới sự thực làm mục đích, nhưng có khi không thể tránh khỏi đụng chạm đến nó. Nếu lìa sự thật mà chỉ bàn đến giá trị thì điều đó không thể nào làm được. Cho nên, khi Phật thu dụng thế giới quan đương thời được lưu hành mà nói về núi Tu Di, đề cập đến thuyết Nam diêm phù đề, nói đến địa ngục, quỷ thần v.v... thì hiển nhiên, không nhiều thì ít, đã đụng chạm với vấn đề sự thực, và đó là khởi đầu của sự quan sát về thế giới sự thực của Phật giáo. Điều này tuy có vẻ vụn vặt, nhưng trong các kinh điển được coi là xưa nhất đã thấy rải rác rất nhiều. Có điều đáng tiếc là cho đến nay chúng ta vẫn chưa được biết những điều đó được thu dụng vào thời đại nào? Và thế giới quan được được lưu hành về phương diện nào? Nhưng điều đáng tin cậy nhất là Đức Phật trong khi thuyết minh, thường đã thu dụng thế giới quan ở thời đại Phật, hoặc thế giới quan được lưu hành ở các địa phương khác. Tại sao? Vì chính cả ngay sự thuyết minh đó cũng quyết không phải mục đích của Phật, cho nên không thể cho đó sáng kiến của Phật, cũng vì lý do ấy.

3- THẾ GIỚI QUAN CỦA A TỲ ĐẠT MA

Điều chắc chắnthế giới quan sự thực của Phật giáo nguyên thủy là nói theo học thuật thường thức của đương thời. Do đó, theo ý nghĩa này, thế giới quan của Phật giáo vốn đã cổ kính, lại càng vó vẻ cổ kính hơn, bởi vì tự nó đã chẳng có mấy đặc sắc. Có lẽ thế giới quan sự thực này Đức Phật đã cải tạo ít nhiều quan niệm đương thời để biến nó thành của Phật giáo, vì đặc sắc của Phật giáo vốn là thu dụng những tư tưởng thời bấy giờ rồi biến đổi để trở thành một trào lưu Phật giáo. Nhất là đến các vị luận sư của A Tỳ Đạt Ma dần dần đã coi thế giới quan này là một vấn đề tự thân cần phải luận cứu, và cũng đã dần dần biến cải nó thành một trào lưu Phật giáo.

Chủ ý của Phật giáo từ xưa vẫn cho rằng ta có thể điều hòa giữa thế giới quan luân lý tâm lýthế giới quan sự thực. Nhưng một khi đã tiến đến giai đoạn được cải tạo thì tất cả không còn bị hạn chế trong cái thế giới quan nhất ban của đương thời nữa. Tức là, ngoài thế giới quan của Bà La Môn giáo, của Kỳ Na giáo, cuối cùng người ta đã thấy thế giới quan của Phật giáo cũng được thành lập thành một dòng riêng. Do ý nghĩa ấy, khi nghiên cứu sự phát đạt của thế giới quan nhất ban của đương thời, mặt khác, đồng thời, lại phải cố gắng tìm hiểu cái quá trình và nguyên do phát đạt của chính Phật giáo nữa.

4- TÀI LIỆU VỀ THẾ GIỚI QUAN

Song, những tài liệu liên quan đến sự phát đạt của thế giới quan Phật giáo như thế nào? Dĩ nhiên, nếu đề cập đến tất cả thì rất nhiều, ở đây chúng tôi chỉ nêu lên những tài liệu chủ yếu mà thôi.

Trước hết là tài liệu rải rác trong A Hàm Bộ, nhất là những tài liệu nhất trí giữa Hán Văn và Ba Li. Những tài liệu này tuy không thể bảo là nguyên thủy, nhưng ít ra chúng cũng có thể được coi là gần với nguyên thủy. Nếu sưu tập thêm, thêm ngoài Trường A Hàm, Trung A Hàm ra, trong Tạp A HàmTăng Nhất A Hàm cũng có rất nhiều. Nhất là trong A Ân Cô Tha Lạp bằng văn Ba Li hiện có rất nhiều tài liệu (chẳng hạn trong Anguttara I, p. 227 và V, p. 59 v.v... nói: "Một mặt trời, mặt trăng chiếu khắp một thế giới, một nghìn thế giới cũng như thế. Trong nghìn thế giới, có nghìn mặt trời, nghìn mặt trăng, nghìn núi Tu Di, nghìn Diêm Phù Đề, nghìn Câu Đa Ni, nghìn Uất Đan Việt ...). Trước tiên chúng tôi hãy căn cứ theo những tư liệu này để nghiên cứu thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy, nhưng đồng thời, chúng tôi sẽ không quên đem so sánh với thế giới quan đã phát đạt sau này.

Với dụng ý trên đây nên bước thứ hai phải nghiên cứu những tài liệu còn truyền lại trong văn Ba Li. Phạm ngữ và Hán Văn. Tựu trung, về phương diện Ba Li thì chủ yếu là Bản Sinh Đàm (hay Bản Sinh Kinh) và phần chú thích của nó, đây tức là tài liệu Bản Sinh Đàm (VI, p. 125, và p. 432), hoặc là tài liệu trong A Tha Sa Li Ni v.v... Về phương diện Phạm ngữ thì có Thiên nghiệp thí dụ, Đại Sự (tham chiếu Kirfel; Die Kosmographie der Inder S.186) v.v... Nhưng tài liệu trọng yếu nhất về vấn đề này là bản Hán dịch Kinh Lâu Thán (kinh Thế Khởi). Bộ kinh này được dịch từ Trường A Hàm, quyển 18 đến 20 (do Phật Đà Da XáTrúc Phật Niệm cùng dịch vào thời Hậu Tần). Những bản dịch khác thì có Khởi Thế Kinh, 10 quyển (do Xà Na Quật Đa dịch đời Tùy); Thế Nhân bản kinh, 10 quyển (do Đạt Ma Cấp Đa dịch), cũng đời Tùy). Tất cả có các phẩm sau đây.

1. Diêm Phù Đề Châu phẩm; 2. Uất Đan Việt phẩm; 3. Chuyển Luân Thánh Vương phẩm; 4. Địa ngục phẩm; 5. Long Điểu phẩm; 6. A Tu Luân phẩm; 7. Tứ Thiên Vương phẩm; 8. Đao Lợi Thiên phẩm; 9. Tam Tai phẩm; 10. Chiến Đấu phẩm; 11. Tam Trung Kiếp phẩm; 12. Thế Bản Duyên phẩm.

Tất cả những tài liệu trên đây được thành lập vào thời gian nào thì điều này vẫn chưa được rõ lắm, nhưng có điều chắc chắn chúng là những sản vật của thời kỳ mà nền thần học của A Tỳ Đạt Ma đã được xây dựng.

Trong lần kết tập thứ tư, những kinh điển thuộc loại này được phụ vào Trường A Hàm (lúc đầu, kinh văn về thế giới quan đích xác đã thuộc một bộ loại, điều này cứ xem có hai bản dịch khác cũng đủ rõ). Do đấy thế giới quan Phật giáo đã được thống nhất, về hình thức tuy đã nhất định, nhưng nếu đem so sánh nó với những sự tập hợp sau này, thì về nhiều phương diện, nó vẫn chưa được luận cứu đến.

Thế Khởi kinh, về mặt thật chất, tuy là A Tỳ Đạt Ma, nhưng trên danh nghĩa, thì vẫn thuộc Khế Kinh. Tuy nhiên về danh nghĩa, nếu đặt vào địa vị A Tỳ Đạt Ma thì đó chính là "Phật thuyết lập thế A Tỳ Đàm luận (10 quyển, do Châu Đế dịch: Đại Chính 32, trang 173 – 226). Bộ luận này chia các chương thành 25 phẩm đối lại với 10 phẩm trong kinh Thế Khởi. Đó là:

1. Địa Động phẩm: 2. Nam Diêm Phù Đề phẩm; 3. Lục Đại Quốc phẩm; 4. Dạ Xoa Thần phẩm; 5. Lậu Xá Kỳ Lợi Tượng Vương phẩm; 6. Tứ Thiên Hạ phẩm; 7. Số Lượng phẩm; 8. Thiên Trụ Xứ phẩm; 9. Hoan Hỷ Viên phẩm; 10. Chúng Xa Viên phẩm; 11. Ác Khẩu Viên phẩm; 12. Tạp Viên phẩm; 13. Ba Lợi Dạ Đa Viên phẩm; 14. Đề Đầu Lại Tra Thành phẩm; 15. Tỳ Lưu Lặc Xoa Thành phẩm; 16. Tỳ Lưu Bác Xoa Thành phẩm; 17. Tỳ Sa Môn Thành phẩm; 18. Thiên Phi Thiên Chiến Đấu phẩm; 19. Nhật Nguyệt Hành phẩm; 20. Vân Hà phẩm; 21. Thụ Sinh phẩm; 22. Thọ Lượng phẩm, 23. Phẩm Địa Ngục (trong đó có 10 phẩm nói 11 địa ngục); 24. Tiểu Tam Tai phẩm (trong đó lại có Tật Dịch Đao Binh và Cơ Ngã Ba phẩm); và 25. Đại Tam Tai phẩm (hỏa tai).

Nội dung các phẩm trên đây là lấy thế giới hiện tượng luận làm nền tảng để nói về những hoạt động của các loài hữu tình trong đó. Tuy mang cái tên là "Phật thuyết" nhưng thật ra nó đã được các vị luận sư của A Tỳ Đạt Ma sau này chỉnh lý, do đó, chắn chắn ta có thể coi nó đã được chế tác theo kinh Thế Khởi.

Thế giới quan của Phật giáo, đến đây, đã dần dần được chỉnh lý, chế tác và đến một trình độ nào đó, được xử lý như một đề mục độc lập để rồi cuối cùng đã được thống hợp thành một phân khoa trong các A Tỳ Đạt Ma luận thư. Trước hết là Thi Thiết luận đã làm việc ấy. Thi Thiết luận bản Hán dịch tuy chỉ có một phẩm Nhân Thi Thiết gồm 7 quyển (Đại chính, 26), nhưng ở Tây Tạng, ngoài Nhân Thi Thiết ra còn có Nghiệp Thi Thiết và Thế Gian Thi Thiết ba phẩm. Trong phần phụ lục của hai phẩm đầu, De la Valleepoussin giới thiệu tác giảThế Thân và Xưng Hữu. Phẩm Thế Gian Thi Thiết tức là luận về Thế giới quan mà chủ yếu là căn cứ vào kinh Thế Khởi trong Trường A Hàm và lấy đó làm phong thái luận cứu của A Tỳ Đạt Ma. Điều này đã được thừa nhậnthời đại Long Thụ, cho nên trong luận Trí Độ quyển 2 có nói như sau:

"Có người cho rằng trong sáu phần A Tỳ Hàm thì Phân Biệt Thế Xứ Phận thứ 3 gồm 8 phẩm (Kinh Lâu Thán cũng đặt vào phần thứ 3 trong sáu phần) là do Mục Kiện Liên trứ tác (Đại Chính, 25, trang 70, thượng)".

Nghĩa là, trong sáu bộ A Tỳ Đạt Ma (Lục Túc Luận của Hữu Bộ?), Thi Thiết Luận được đặt vào hàng thứ 3, mà phần chú thích thì căn cứ vào Kinh Lâu Thán, cho nên, về điểm này, đã ám chỉ luận Thi Thiết đã được thoát thai từ kinh Thế Khởi trong Trường A Hàm. Vả lại, trên thực tế, đem đối chiếu giữa Thế Khởi Kinh và Thế Gian Thi Thiết, người ta thấy có rất nhiều điểm nhất trí: đó là một sự thật không thể phủ nhận. Điều này chúng tôi đã trình bày qua trong "A Tỳ Đạt Ma Luận Nghiên Cứu", thiên thứ 3.

Về Hán dịch, luận Thi Thiết tuy chưa được truyền một cách toàn thể, nhưng tại Ấn Độ, nó mang một ý nghĩa rất trọng yếu, không những là một trong Lục Túc luận của Hữu Bộ, mà đối với các bộ khác, nó cũng rất được coi trọng. Cho nên, Thế Gian Thi Thiết luận đã được coi như một quyền uy về thế giới quan của Phật giáo. Nhất là trong Hữu Bộ Tôn, tức là trong các luận bộ khác, cũng đề cập đến thế giới quan (chẳng hạn như tập Tập Dị Môn Túc luận, quyển 11, thuyết minh về ngũ thú, quyển 17, thuyết minh về Thất Thức Trụ, quyển 19, thuyết minh về Cửu Hữu Tình Cư; rồi đến Pháp Uẩn Túc luận, quyển 10 đến 12 thì có Căn phẩm, Đa Giới phẩm, Duyên Khởi phẩm; Và Thức Thân Túc luận quyển 2 đến 3 thì có Bổ Đặc Già La Uẩn; sau hết, Phẩm Loại Túc luận, quyển 6 nói về Dị Sinh Pháp, và quyển 8 thuyết minh về Cửu Hữu Tình Cư, v.v...). Đến khi tập hợp lại thì, về thế giới quan, luận Thi Thiết được coi là đặc biệt trọng yếu. Luận Đại Tỳ Bà Sa, vì là giải thích luận Phát Trí, nên không có chương đặc biệt về thế giới quan. Tuy nhiên, cũng thỉnh thoảng có chỗ nói đến thế giới và, về điểm này, đã lấy tài liệu từ Thế Gian Thi Thiết. Trong luận Pháp Thắng A Tỳ Đàm Tâm tuy không có chương nào nói về thế giới, nhưng trong luận A Tỳ Đạt Ma Câu Xá của Thế Thân, vốn là tập Đại Thành của Pháp Thắng A Tỳ Đàm Tâm luận, thì trong chương thứ 3, có lập một phẩm là Thế Gian phẩm mà tôi cho rằng đã phỏng theo thể tài của luận Thi Thiết kể trên. Mà tinh thần phê bình của luận Câu Xá tựa hồ còn triệt để hơn cả tinh thần đó trong Đại Tỳ Bà Sa, và, nếu đem biểu hiện nó vào thế giới quan trong Thế Gian phẩm thì, theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói nó đã đạt đến điểm cao nhất trong các A Tỳ Đạt Ma luận thư. Chính vì thế mà xưa nay hễ cứ đề cập đến thế giới quan của Phật giáolập tức người ta nghĩ ngay đến Thế Gian phẩm trong luận Câu Xá. Biện Duyên Khởi phẩm trong Thuận Chính Lý luận, hoặc Hiển Tôn luận chắc chắn là đã dựa theo những tài liệu trên đây làm nền tảng tiêu chuẩn.

5- SỰ PHÂN LOẠI THẾ GIỚI

Trước khi đi sâu vào đề tài chính, tôi tưởng cần nói qua về phương pháp phân loại thế giới đã.

Trong Phật giáo, thế giới (tức thế gian) có hai nghĩa: một là vật khí thế gian, và một là hữu tình thế gian. Khí thế gian là chỉ nơi cư ngụ của các loài hữu tình, tức thế giới vật khí; còn hữu tình thế gian là chỉ cái tổng thể của sinh vật cư ngụ trong thế giới vật khí này. Hai cái đó tuy vốn không thể rời nhau, nhưng để tiện cho việc quan sát nên chia thành hai loại như thế: đó là cái thông lệ của nền giáo học Phật giáo. Do đó, chúng tôi tưởng cứ theo cách phân loại trên đây để quan sát thế giới quan của Phật giáo cho tiện lợi. Song, thế giới quan của Phật giáo vốn quan sát cái gọi là "Hữu tình thế gian", vì đó là chủ yếu, nên trong Khí Thế Gian luận cũng bao hàm cả Hữu Tình luận: điều này tưỏng không cần nói ai cũng hiểu.

6- SÁCH THAM KHẢO

Khi nghiên cứu về vấn đề này, ngoài những tư liệu đã nói ở trên ra, những sách sau đây cũng là những tài liệu chủ yếu cần tham khảo:

a) Viên Huy, Câu Xá luận tụng sớ, quyển 8 đến 12.

b) W. Kirfel, Die Kosmographie (2te Abschnitt, Die Kosmographie der Buddhisten) 1920 Bonn.

c) Hastings, Encyclopaedia of Religion and Ethics (vol. IV, phương pháp. 129 – 138); Cosmogony and Cosmology (Buddhist) by De a Valleepoussin.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12470)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10342)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11621)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28776)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12024)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12983)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11428)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17427)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52983)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35467)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10664)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19211)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12387)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25998)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13296)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14346)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16063)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13712)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16817)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17539)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13106)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12509)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11592)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11580)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14481)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20414)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18939)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19521)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18603)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12166)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13830)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14984)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15023)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13966)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15503)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11376)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17138)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14943)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20166)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14594)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13811)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11683)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15029)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12974)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22837)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14536)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11632)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16850)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18318)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11484)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15824)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12858)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18882)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18391)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant