Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiên Thứ V: Luân Lý Luận

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12056)
Thiên Thứ V: Luân Lý Luận


Thiên Thứ V: Luân Lý Luận

CHƯƠNG I

TỔNG LUẬN

1- Những điều chúng tôi đã trình bày ở trên, tuy chưa được hoàn bị; nhưng đối với tâm-ký-quan nhất ban của các A-tỳ-đạt-ma-luận-thư như thế cũng đã nói lên một cách đại thể rồi. Song, như chúng tôi đã thường nhắc đi nhắc lại, là mục địch của tâm-lý-luận Phật-giáo không phải chỉ luận về hoạt động tâm-lý suông, nhưng là phân tích và quan sát những hoạt động tâm lý để hỗ trợ cho việc tu-dưỡng của người ta. Do đó, tâm-lý-luận của Phật-giáo rốt cục là tâm-lý-luận luân lý, còn như tâm-lý-luận nhất ban chẳng qua chỉ là một đạo-trình đưa đến mục đích đó mà thôi. Từ đây, để ứng dụng nhất ban-luận ở trên, chúng tôi muốn bàn đến luân-lý-luận và tu-đạo-luận. Song, trên giáo-tướng của Phật giáo, cái gọi là luân-lý-luận và tu-đạo-luận, và tâm-lý-luận (Ðại-chính, 27, trang 8, hạ) nói, Pháp-Cứu cho tâm và tâm-sở chỉ là sự sai biệt của tư, tức những tướng của tác-dụng ý-chí; Giác-thiên thì cho tâm, tâm-sở, thể của nó là tâm. Ðối với những ý kiến này mà đề xướng tâm-tâm-sở-biệt-thể-luận, đứng đầu Tích-lan Thượng-Tọa-Bộ, rồi đến Hữu-Bộ và tất cả các phái khác chủ-trương cơ-giới chủ nghĩa, tức là các học phái muốn phân tích các pháp để quan sát một cách máy móc, là những nhà biệt thể luận. Ai cũng biết trong Thành-thật-luận quyển 5 (thứ 60-64), vì có đề cập đến vấn đề này nên ở đây hãy tạm đưa ra lý do xem sao. Theo đó thì chính Tành-thật-luận chủ-trương nhất-thể-luận, lý do này đã được trình bày rồi. Thứ nhất, xem trong các kinh văn Phật nói (A-Hàm-Bộ), tuy thường đề cập đến nhiều tâm, nhưng ngoài tâm ra, không có lập luận về tâm sở. Mặc dầu tựa hồ có nói đến tâm-sở nhưng suy cứu đến ý nghĩa thì đó chẳng qua chỉ là thuyết minh sự sai biệt của những tác dụng tâm mà thôi (đại ý của phẩm Vô-Số thứ 60). Nói thức, nói giác, nói tưởng, tóm lại, chẳng qua chỉ là bất đồng về danh xưng chứ thật thì không ngoài tác dụng nhận thức của tâm; không những thế, ngay đến thụ, tức cảm tình, nếu coi nó là ý thức, thì đương nhiên nó cũng tức là “biết” (do đó, tuy nói khổ, lạc thụ, nhưng nó là một loại “biết”). Minh-vô-số-phẩm 64, Ðại-chính, 32, trang 276, thượng). Như vậy, tác dụng của tâm tuy có nhiều thứ, rốt cuộc cũng chỉ là đồng tướng của tâm (tác dụng duyên lự) và bất luận loại nào cũng chỉ là sự sai biệt của cùng một tâm (minh vô-số-phẩm 64) đó là chủ trương của các nhà nhất-thể-luận (tâm, tâm-sở-luận) tự thân là một để mục hơi khác nhau cho nên ở đây, một mặt lấy tâm-lý-luận làm cơ sở, một mặt lại chiếu theo những hoạt động tâm-lý biểu-hiện thành hình thái thực tế luân lýtu đạo để nói lên cái ý nghĩagiá trị chủ yếu của nó.

Nhưng, trước hết cần phải nhận-xét một cách tổng quát để hiểu qua luân-lý-luận của A-tỳ-đạt-ma trước khi đi sâu vào đề tài chính.

2- Trong tất cả các tôn-giáo trên thế-giới, Phật-giáo là một tôn-giáo có sắc thái luân-lý sâu đậm nhất. Trong số các học giả Tây-phương có người cho rằng, so với Bà-La-Môn-giáo, Phật-giáo là một phái đặc biệt chú trọng về vận động luân-lý. Do đó ta thấy Phật-giáo rất trọng luân-lý. Theo Phật, nếu người ta muốn đạt đến cảnh-giới giải thoát tối cao thì trước hết phải từ phương diện tiêu-cực, lánh tất cả mọi việc thiện: đó là điều kiện tất yếu. Ai cũng biết bốn câu kệ trứ danh “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo” – tránh mọi điều ác, làm các việc thiện, giữ tâm trong sạch: đó là lời dạy của chư Phật - chỗ lập cước của nó tuy đã được nhận định, nhưng nếu nhận xét nó về phương diện lịch, đối với mỗi quan hệ căn bản giữa giải thoát tối caođạo đức, thì dù cùng trong Phật giáo, nhưng vì tất đã là đồng nhất. Trong thời Phật Giáo Nguyên Thủy, đức phật đã đứng trên lậ trường lánh dữ, làm lành để suy tiến và tưởng thưởng tất cả trình độ thiệu sự. Ðến cảnh-giới tối cao thì biến thành vô-ngã tuyệt đối, hoàn toàn hy sinh tự kỷ cho công cuộc lợi tha, còn đối với những người bất hại mình thì hoàn toàn chấp nhận chủ nghĩa vô-để-kháng (như hạnh Bồ-Tát được thể hiện trong Bản-sinh-đàm). Rồi trở xuống, những việc thiện lấy thù báo ở tương lai làm mục tiêu, hay thiện sự lấy hạnh phúc ở đời này làm mục đích, tất cả chỉ cần đừng làm hại kẻ khác, những việc thiện như thế đều đã được đức Phật suy tiến. Mà tương quan của việc thiện, hoặc đưa đến giải thoát tối cao là nhờ cái gọi là vô-lậu-thiện, hoặc về chính sự quốc-gia, hoặc về nghĩa vụ của quần thần đối với quốc vương, hoặc về sự hòa thuận trong một nhà, về quan hệ giữa vợ chồng, anh em, thầy trò; cho đến về chế độ kinh tế, vệ sinh, v.v… tóm lại, tất cả cái gì là thiện đều được tưởng thưởng. Ðương nhiên, đây không phải nói về phương diện tổ chức có hệ thống, nhưng đức Phật chỉ trả lời những ai đề cập đến những vấn đề đó mà thôi.

Tóm lại, xuất phát từ tâm từ bi và tâm đồng tình, đức Phật đã vì mọi người nói lên tất cả thiện sự, đó là một sự thật mà bất cứ ai đã đọc qua bộ A-Hàm Thánh-điển cũng đều thừa nhận. Cái nguyên nhân làm cho Phật giáo bành trướng trên thế giới tuy có nhiều, nhưng, như lịch-sử đã chứngminh, có nhiều vua chúa, sau khi quy y Phật, đã dùng tâm lý Phật-giáo để lãnh đạochi phối quốc-gia, do đó mà Phật-giáo hưng thịnh: điều này, từ vua A-Dục ở Ấn-Ðộ thuở xưa cho đến nay vẫn còn là một sự thật hiển nhiên.

3- Phật-giáo tuy đặm màu luânlý nhưng nếu nhận xét về phê phán nền luân lý theo lập trường học-vấn, thì do cách nhận xét bất đồng, cũng có nhiều sự giải thích khác nhau. Như đã nói ở trên, mục địch của đức Phật trước sau vẫn là ở chỗ thực-hành, không phải thuyết minh về ý luận, cho nên, những lời dạy của ngài liên quan đến luân lý, đạo đức phần lớn là những lời giáo huấn lâm thời, chẳng qua chỉ lập đi lập lại những đức mục mà thôi. Nếu muốn có một thế hệ nhất-quán thì, về cách giải thích, có thể chia thành nhiều ý kiến khác nhau. Giờ xin đưa ra những điểm chủ yếu như sau:

Thứ nhất, mục đích đầu tiên của Phật giáogiải thoát. Mà giải thoátsiêu việt hiện-thế, do đó luân-lý đạo đức được quy định cho hiện-thế đối với đạo giải thoát tất kính chỉ có quan hệ gián tiếp chứ không có quan hệ trực tiếp. Ðương nhiên, xa lìa ngã chấpcon đường chủ yếu đưa đến giải thoát, nhưng vô-ngã, vô-để-kháng là điều kiện tất yếu của đạo giải thoát tuy chẳng có gì sai khác, song trở xuống như cái gọi là thiện-sự thế-gian, nhận xét theo lập trường đệ-nhất-nghĩa-đế của Phật giáo, chẳng qua cũng chỉ là sự chuẩn bị cho việc tu đạo để đạt đến vô-ngã tối-cao mà thôi.

Thứ hai, nếu đã đạt được giải thoát thì vì mục đích đã hoàn thành nên không còn cần phải câu nệ đạo đức luân lý nữa, cũng như người đã tốt nghiệp Ðại học không còn phải chuẩn bị thi vào đại học nữa.

Thứ ba, luân-lý đạo đức trong Phật giáo tất kính chỉ là phương tiện, là đệ-nhị-nghĩa, nhất là đối với công cuộc cứu tế xã hội, nếu quá chấp nê sẽ trở thành chướng ngại cho việc tu đạo – trên thực tế, luân-lý-luận của Phật giáo có thể giải thích theo nhiều phương diện, nhưng, trong số các học giả Âu-châu, có người cho Phật giáo là cuộc vận động luân-lý, mà cũng có người, trái lại, bảo “trong những tư tưởng căn bản của Phật-giáo hầu như không có sắc thái luân lý”. Ngày nay, nhìn vào Phật giáo Ðại-Thừa, muốn xã hội hóa Phật giáo, thật tế vận động công cuộc cứu tế xã hội, cũng có rất nhiều người, nhận xét theo lập trường bản lai của Phật-giáo, giữ thái độ cho rằng đó chỉ là công việc bên ngoài, đại khái đây là thái độ đã xuất phát từ kiến giải thuần lý-luận.

4- Song, trên đây chỉ là sự nhận xét phiến diện. Ở một phương diện khác, đặc biệt là nhìn vào nhân cách của người sáng lập Phật giáo, người đã đề xướng một nền luân-lý tạp đa làm nhãn mục cho Phật giáo đồ, nếu lấy Phật và niềm tin của ngài trải qua nhiều kiếp làm cơ sở mà nói, thì kết luận trên đây không phù hợp với chân ý của Phật bởi những lý do sau đây: 1) Theo Bản-sinh-đàm, đức Phật, trong các kiếp tu hạnh bồ-Tát, đã từng sinh vào nhiểu loại hữu tình, và bất cứ trong cảnh ngộ nào cũng phát tâm đại-từ-bi-vô-ngã mà tận lực làm mọi thiện sự để giúp chúng sinh, không biết mỏi mệt. Cho đến tất cả việc thế tục, không từ bỏ một việc thiện nào dù khó đến đâu cũng hết lòng vì người giúp đới mà làm, và coi như đó là điều kiện tất yếu để thành Phật. 2) Cuối cùng, đến kiếp này Bồ-Tát đã thành Phật. Tuy Phật đã đạt đến giải thoát tối cao lúc 25 tuổi, nhưng trong suốt 46 năm sau đó đức Phật vẫn tiếp tục không ngừng sự nghiệp cứu người, giúp đời và không một việc thiện nhỏ nhặt nào mà ngài không làm. Trong ý nghĩa ấy, theo giáo-lý Phật-giáo mà nhận xét thì những hoạt động của đức Phật sau khi thành Chính-giác, với đức Phật vẫn là hoạt động của Bồ-Tát, có thể nói, lại đem những kinh-nghiệm ở thời đại Bồ-Tát mà thực thi trong kiếp hiện tại. Từ đó đưa đến kết luận 3,) làm việc thiện để thành phật là chuẩn bị cho việc giải thoát, đòng thời, vì đời mà suy tiến mọi thiện sự, tự mình cũng làm thiện sựtư cách và nghĩa vụ của người giải thoát. Do đó, làm việc thiện tức là đạo đức, bất luận thế gian này xuất thế, bản thân thiện sựphật đạo. Cho nên, đối với giáo lý do đức Phật chỉ dạy không nên giải thích câu nệ theo thần học. Nếu trực tiếp lấy nhânc ách của chính đức Phật làm trung tâm thì, như trên đã nói, đức mục luân lý Phật giáo nào không phù hợp với nhân cách đó cuối cùng cũng bị loại bỏ.

5- Căn cứ theo những tài liệu của Phật giáo nguyên thuỷ mà luận cứu, dù cho cùng một sự trạng, nhưng nếu tiến đến cái tinh thần căn bản thì tự nhiên cũng phát sinh những giải thích bất đồng, do đó mà trên thực tế cũng có thể có những thái độ khác nhau về luận lý. Song, trở lại với vấn đề hiện tạiluân lý quan trong A-tỳ-đạt-ma-luận-thư theo thái độ nào? Vấn đề này, tuy không thể thảo luận theo một cách nhất khái, nhưng, trên đại thể, có thể nói, đạo đức là sự chuẩn bị để hướng tới giải thoát, không ngoài hai loại là đạo đức xuất-gia và đạo-đức tại-gia, khi được giải thoát rồi tất phải trở lại suy tiến những thiện sự thế-gian, hoặc là nghĩa vụ tự mình phải thực hành. Nói cách đơn giản: sinh hoạt đạo đức tuy là nấc thang cần thiết để hướng tới giải thoát, nhưng tự nó không phải là mục đích tối hậu. Trong bộ-phái phật-giáo có một phái mà ai cũng biết là Bắc-đạo-phái cho rằng lòng từ bi cũng là một thứ phiền não, và thậm chí chủ-trương “Phật không có từ bi tâm” (K. V. XVIII, 3). Các nhà Ðại-Thừa sau này bảo đó là kiến giải Tiểu-Thừa và chê họ là những kẻ tự lợi chính cũng vì lý do ấy. Tư-tưởng này, sau khi phật nhập diệt, không được thịnh hành. Nếu cứ theo ý kiến trong Giáo-Hội Phật-giáo thì nhân cách của Phật rất đặc biệt, không phải ai ai cũng hiểu được, bởi thế sự kinh lịch thực tế của Phật dĩ nhiên chỉ biểu hiện trong Bản-sinh-đàm khi tu hạnh Bồ-Tát và lại coi đó gần như là nhân sự mà thôi, họ chỉ chuyên theo với những gì được biểu-diện trong kinh rồi chỉnh lý ít nhiều về mặt lý luận, cho nên, kết quả đã có những lý luận như trên. Ðương nhiên những ý kiến đó tuy như thế nhưng quyết không thể như Ðại-Thừa chê là chỉ khuynh hướng về một mặt siêu-thoát, mà theo lời Phật dạy, trên thực tế, họ cũng rất tận lực đối với các việc thiệnthế gian. Tóm lại, có thể nói, vì đã xuất phát từ kiến-địa thần-học mà đã có kết luận như trên. Ðối lại với ý kiến này là ý kiến thứ hai, tức làm việc thiện ở thế-gian mà xa lìa được tâm-sở đắc thì cũng là phật đạo. Cũng như ý kiến thứ nhất, ý kiến thứ hai cũng cho người đã giải thoát phải lấy sự nghiệp cứu-tế thế-gian làm mục đích tối cao của Phật giáo. Tất cả đều lấy Phật làm lý tưởnghoạt động, đó là chủ trương của Ðại-thừa và chung cực đã đạt đến thuyết-pháp Bất-trụ niết-bàn.

Song ở đây, vấn đề Ðại-thừa chưa được bàn đến, chúng ta chỉ đang luận về đặc trưng luân-lý-quan của Tiểu-thừa-luận-bộ mà thôi. Nếu cần phải bàn thêm nữa thì, như đã nói ở trên, các học phái Tiểu-Thừa tuy không đặt nặng giá trị tối chung của đạo đức, nhưng, vì nó là sự chuẩn bị cho giải thoát nên vẫn rất coi trọng đạo -đức. Về điểm này, cứ xem trong các luận-thư, khi luận cứu các đề mục, đã phân biệt cái gọi là ba tính, lấy thiện, ác, vô-ký làm tiêu-chuẩn trọng yếu nhất mà phê phán giá trị của nó thì đủ rõ. Hơn nữa, như đã nói nhiều lần, cái đặc trưng lớn của các luận-thư là muốn đặt rọng tâm cơ-sở-đạo-đức ở tâm-lý-luận. Như vậy, đề mục luân-lý-luận của Luận-Bộ là chỉnh lý những lời trong kinh, hoặc những đức-mục được biểu-hiện trong Luật rồi cho nó một giải thích nhất định: đó chính là cách xử lý cái mà ai cũng biết được gọi là Nghiệp-phẩm vậy.

Tóm lại, phương pháp xử lý luân-lý-luận của A-tỳ-đạt-ma-luận, về phương diện thích ứng với cái học-phong nhất-ban của A-tỳ-đạt-ma, tuy có thể nói là tính cách lý-luận, nhưng thay vì đi vào chiều sâu thì lại chỉ phân biệt những lời kinh theo chiều rộng và rất chú trọng sự mâu thuẫn về mặt biểu diện. Do đó, nếu chỉ có thế thôi thì tuy vẫn chưa đạt đến chỗ sâu xa của luân-lý-luận của Phật-giáo, nhưng nếu đứng về phương diện quảng-bác mà nói, thì bất cứ ai, nếu không biết qua những điểm đó thì không đủ tư cách để bàn đến luân-lý-luận của Phật-giáo. Tuy nhiên, vì luân-lý-quan của A-tỳ-đạt-ma-luận, nếu đứng trên lập trường luân-lý-luận ngày nay mà nhận xét, thì phương pháp luận cứu của nó rất bác-tạp, bởi thế, nếu ta muốn nghiên cứu nó một cách có thể-hệ thì tất nhiên ta cần phải đặc biệt chú ý đến phương pháp xử lý tài liệu đó.

6- Về tài-liệu và sách tham khảo để nghiên-cứu vấn đề này, thì phần tài liệu, lấy thuyết pháp luân lý trong Ni-kh-da làm trung tâm, mà Nghiệp-phẩm, Phiền-não-phẩm, Trí-phẩm, Ðịnh-phẩm v.v… (không giới hạn trong luận Câu-xá) trong các luận thư là toàn bộ luận thư xử lý về phẩm loại này.

Về sách tham khảo, chúng ta có thể kể vài ba cuốn sau đây:

Ward; TheEthics of Buddhism.

P.Dahlke; Buddhism als Religion und Moral. Zweite

Auflage 1923, Miinchen – Neubiberg.

John Mckenzie, Hindu Ethics. 1922, London and Calcutta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12460)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10107)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11135)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14216)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11887)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10513)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12565)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16423)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12572)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12177)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10810)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13412)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11878)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12667)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14396)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9767)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11057)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12096)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15191)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12124)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19536)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24422)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10595)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant