Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thập giới của Sa-di ni

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12684)
Thập giới của Sa-di ni

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

SA-DI VÀ SA-DI NI

THẬP GIỚI CỦA SA-DI-NI

Bài này của một nhà sư đời Hậu Hán bên Trung Nguyên soạn, khoảng thế kỷ thứ hai theo Dương lịch, đã mất tên.

Mười giới của sa-di ni thật ra không khác với mười giới của sa-di. Tuy nhiên, bài này được soạn với ý khuyến khích, sách tấn việc trì giới, nên chúng tôi cũng đưa vào để giúp ích thêm cho người muốn tu học.

1. Giới đầu tiên của sa-di ni là không được giết hại sanh mạng. Hãy thương yêu muôn loài như cha mẹ thương con, mở rộng lòng thương đến hết thảy các loài động vật lớn nhỏ, xem như con ruột của mình. Thế nào gọi là không giết hại? Phải tự phòng hộ cả ba nghiệp thân, miệng và ý. Không được tự tay mình giết hại hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác giết hại. Không được ăn thịt những con vật mà mình nhìn thấy hoặc nghe biết, hoặc có nghi ngờ về sự giết hại chúng, hoặc người khác đã giết hại chúng là vì mình.

Sa-di ni phải cẩn thận ngay cả trong lời nói của mình. Không được nói việc muốn giết hại, muốn trả thù, hoặc nói rằng giết hại là thích thú, khoái chí, hoặc khen chê bình phẩm con vật này là ốm, con vật kia là mập, nhiều thịt ít thịt, hoặc thịt ngon thịt dở... Trong ý cũng không được nghĩ đến những chuyện như vậy. Hãy thương tưởng chúng sanh như thương chính thân mình, như cha mẹ, con cái của mình. Hãy hết lòngcầu đạo Đại thừa giải thoát. Đó là giới đầu tiên của sa-di ni.

2. Giới thứ hai của sa-di ni là không được trộm cắp. Không được lấy của ai dù là những vật nhỏ nhặt, ít giá trị nhất. Chủ nhân không tự ý cho mình thì không được lấy. Miệng cũng không được nói đến, tâm ý không nghĩ đến những chuyện trộm cắp. Mắt không mê đắm theo hình sắc, tai không mê đắm theo âm thanh, mũi không mê đắm theo mùi hương, lưỡi không mê đắm theo vị ngon ngọt, thân không mê đắm y phục tốt đẹp, tâm không mê đắm sự tham muốn. Đối với sáu điều ấy đều không mê đắm thì có thể đứng vững, tự làm chủ được mình bằng trí tuệ sáng suốt, như vậy gọi là không mắc vào tội trộm cắp. Đó là giới thứ hai của sa-di ni.

3. Giới thứ ba của sa-di ni là không được phạm vào chuyện dâm dục. Như thế nào gọi là không được phạm vào dâm dục? Phải một lòng trong sạch. Thân không làm chuyện dâm dục, miệng không nói lời dâm ô, cho đến trong tâm cũng không nghĩ đến. Tự giữ mình trong sáng, như gió thổi giữa hư không, không gì vướng mắc được. Thân không làm, mắt không nhìn đến, tai không nghe, mũi không ngửi, miệng không nói, tâm không tưởng đến, tất cả đều xa lìa chuyện dâm dục. Hãy quán xét thân này chẳng qua chỉ là tứ đại giả hợp. Trong tứ đại ấy, đất nước gió lửa đều chẳng có món nào thật sự là ta, là người, không có cả thọ mạng, vậy chấp vào đâu mà có sự dâm dục, chấp vào đâu mà vướng mắc? Tâm ý luôn hướng đến Không, Vô tướng, Nguyện. Đó là giới thứ ba của sa-di ni.

4. Giới thứ tư của sa-di ni là không được nói hai lưỡi, nói lời độc ác. Phải nói những lời ôn hòa, hiền hậu. Không thấy đừng nói là thấy, không nghe đừng nói là nghe, thấy điều ác chớ nên truyền bá, nghe điều ác chớ nên lập lại. Phải thẳng thắn mà tránh xa những lời độc ác, thường làm theo bốn tâm từ, bi, hỷ, xả. Không nói những lời sai quấy. Nói ra lời nào đều là việc đạo, không được bàn luận chuyện thế sự, chính sự. Thường ngợi khen kinh pháp, giới pháp chính của Bồ Tát, tâm chí hướng theo Đại thừa, chẳng phải vì những việc học hỏi nhỏ nhặt, nên thường làm theo bốn tâm vô lượng. Đó là giới thứ tư của sa-di ni.

5. Giới thứ năm của sa-di ni là không được uống rượu. Chẳng những không được nghiện rượu, mà cũng không được nếm thử rượu nữa. Rượu dẫn đến rất nhiều lỗi lầm. Rượu làm cho bại hoại phong hóa, tan rã gia đình, nguy hại đến sức khỏe và mạng sống của bản thân, muốn đi bên này lại đến bên kia, muốn nắm vật này lại cầm vật nọ; mất hẳn chủ ý, không thể tụng kinh, không thể thờ kính Tam bảo; khinh thầy, bỏ bạn, bất hiếu với cha mẹ; tâm ý bế tắc, kéo dài sự ngu muội mãi mãi, không thể thấy được đạo lớn, tâm ý không có nhận thức. Vì vậy nên không được uống rượu, chỉ mong muốn sao cho lìa khỏi được năm ấm, năm dục, năm triền cái, chứng đắc năm thần thông, vượt qua năm nẻo. Đó là giới thứ năm của hàng sa-di ni.

6. Không được giữ lấy các loại hoa và hương thơm để tự xông ướp, trang sức, làm thơm làm đẹp cho mình. Các thứ quần áo, giày dép, chăn màn của mình dùng, đều không được tô điểm bằng năm màu chính để cho tăng phần đẹp đẽ. Không được dùng các loại y phục, trang sức quý giá như gấm vóc, tơ lụa, vòng vàng, chuỗi ngọc... cũng không được nhìn ngắm những thứ ấy. Phải mặc y phục theo đúng pháp bằng vải thô xấu, nhuộm những màu xấu xí vào. Khi đi ra ngoài thì phải cúi mặt xuống mà đi. Trong lòng mong muốn trừ bỏ sáu điều nguy hại thì phải lấy giới hạnh làm hương thơm, lấy việc cầu tụng pháp mầu sâu thẳm làm của cải quý giá, cầu được Ba mươi hai tướng tốt làm chuỗi ngọc trang sức, lấy việc vun trồng các vẻ đẹp oai nghi của thân làm trang phục che chở cho mình. Nguyện được sáu phép thần thông không ngăn ngại, lấy sáu pháp ba-la-mật mà dẫn dắt cho người khác, đó là giới thứ sáu của sa-di ni.

7. Giới thứ bảy của sa-di ni là không được ngồi, nằm trên ghế cao, giường rộng có khảm bạc vàng và bao phủ bằng gấm vóc quý giá đủ màu. Không được nghĩ đến hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác tìm cách để có những giường, ghế tốt đẹp, chiếu, gối, màn, quạt có tô điểm đẹp đẽ đủ màu. Không được mang những vòng nơi cánh tay, nhẫn trong ngón tay. Những món quý là chánh trực, đức tin, giới hạnh, đức tàm quý, bố thí, học rộng, trí tuệ, một lòng chuyên cần thường cầu chánh định; phải lấy những món ấy mà làm giường chiếu của mình, lấy tâm không dao động, sự sáng suốt tự nhiên mà làm chỗ ngồi. Bảy giác chi kiên định không lay chuyển, chí hướng về nơi tâm đạo. Đó là giới thứ bảy của sa-di ni.

8. Giới thứ tám của sa-di ni là không được nghe ca hát, đàn, trống, sáo, phách các thứ âm nhạc. Không tự mình phạm vào, cũng không được chỉ bảo, sai khiến người khác làm. Thường tự tu thân, làm theo chánh pháp, không phạm vào tà hạnh. Một lòng nương theo Phật, lấy việc tụng kinh, thực hành chân chánh làm niềm vui trong đạo pháp của mình, không chạy theo những thú vui thế tục. Nghe kinh suy xét hiểu thấu nghĩa mầu. Khi không có bệnh thì không được ngồi lên các thứ xe cộ. Nên nghĩ đến sự thanh thản nhẹ nhàng khi đạt được tám loại thần thông chẳng thể nghĩ bàn, xem đó là xe cộ dùng để vượt qua tám nạn. Đó là giới thứ tám của sa-di ni.

9. Giới thứ chín của sa-di ni là không được tích lũy, chứa giữ những vật quý báu. Không được tự mình lấy, cũng không được chỉ bảo, sai khiến người khác lấy. Thường tự mình phải chuyên cần, tinh tấn, lấy đạo pháp cho là quý báu, lấy kinh điển cho là cao trổi, lấy ý nghĩa cho là mầu nhiệm, lấy việc hiểu rõ ba môn giải thoát: Không, Vô tướng, Vô nguyện làm căn bản, thẳng đến ba cửa giải thoát ấy, chẳng cầu sự tham dục. Lòng chỉ cầu được xa lìa chín sự phiền não, an trụ rất lâu trong đạo pháp không có giới hạn cùng tột, mà cũng là không có chỗ trụ. Đó là giới thứ chín của sa-di ni.

10. Giới thứ mười của sa-di ni là không được ăn trái giờ. Thường phải ăn đúng giờ, không được để quá. Khi đã qua giờ ngọ rồi không được ăn nữa. Cho dù có món ngon đến đâu cũng không ăn, lại cũng không chỉ bảo, sai khiến người khác phạm vào, thậm chí tâm ý cũng không được nghĩ đến. Cho dù có món ăn ngon tột bật tự nhiên được mang đến cũng không ăn. Dù những người quyền cao chức trọng mà quá giờ đến cúng dường món ăn cũng không ăn. Dù cho phải chết cũng chẳng phạm giới này. Thường suy nghĩ đến việc thiền định, còn hết thảy món ăn thức uống chỉ cần vừa đủ để nuôi sống mà thôi. Phải cầu hiểu hết những điều sâu xa, đạt tới mọi chí nguyện, chứng đắc Mười lực, lấy đó làm món ăn thức uống của mình. Đó là giới thứ mười của sa-di ni.

° ° °

Sa-di ni đã thọ mười giới rồi, nguồn đạo tư duy được thuần thục. Có thể giữ trọn vẹn được mười điều này thì cho đến năm trăm giới cũng tự nhiên đầy đủ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22298)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18962)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14453)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18634)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13590)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13264)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13669)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13941)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13254)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16166)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11086)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16459)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11909)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17602)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12881)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12866)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16395)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13134)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12094)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12775)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12919)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14125)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16482)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14391)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11334)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11038)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13897)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13167)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13512)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12740)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10236)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10238)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13707)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16272)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11969)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12981)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11662)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10800)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10946)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11901)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12770)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11069)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11330)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant