Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lễ thọ giới Tỳ-kheo

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13608)
Lễ thọ giới Tỳ-kheo

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

TỲ-KHEO VÀ TỲ-KHEO NI

LỄ THỌ GIỚI TỲ-KHEO

Bài này của phái Đàm-vô-đức-bộ, ngài Đàm-đế soạn năm 254 theo Dương lịch.

Trước hết, người xin thọ cụ túc giới đứng trước chư tăng mà thưa thỉnh hòa thượng rằng:

Kính bạch đại đức, xin một lòng thương tưởng đến tôi. Tôi tên là ... ... xin thỉnh đại đức làm hòa thượng. Xin đại đức vì tôi làm hòa thượng, tôi nhờ nương theo đại đức mà có thể thọ giới cụ túc. Xin đại đức lấy lòng từ bi thương xót tôi.

Thưa thỉnh như vậy ba lần. Như vị thầy nhận lời, sẽ nói là: “Tốt lắm, tôi nhận lời.”

Khi ấy, chúng tăng cho người muốn thọ giới lui ra, đến một chỗ chỉ có thể nhìn thấy nhưng không nghe được nơi giới đàn. Vị giới sư sẽ thưa hỏi trước đại chúng rằng:

Bạch chư đại đức, trong các vị đây, xin hỏi ai có thể vì đệ tử này mà nhận làm giáo thọ sư hay chăng?

Vị tỳ-kheo nào trong đại chúng nhận làm giáo thọ sẽ bước ra trả lời: “Tôi có thể nhận làm.”

Khi ấy, vị giới sư liền thưa trước chúng rằng :

Kính bạch chư đại đức tăng! Đệ tử đây tên là ...(tên người xin thọ giới) ... theo hòa thượng ...(tên vị hòa thượng đã nhận thỉnh) ... cầu thọ cụ túc giới. nếu chư tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, thì đại đức ... (tên vị đã nhận làm giáo thọ) sẽ làm giáo thọ.

Nếu đại chúng yên lặng tức là đã ưng thuận. Vị giáo thọ liền đến chỗ người xin thọ giới mà hỏi rằng:

Đây là ba tấm y an-đà-hội, uất-đa-la-tăng, tăng-già-lê, đây là bình bát. Những thứ này có phải là của ông hay chăng?

Người thọ giới đáp: “Thưa, đúng là của tôi.”

Vị giáo thọ dạy tiếp:

Ông nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi con, điều nào đúng thật, phải thưa là đúng thật, như có gì không thật, phải thưa là không thật.

Sau đó, vị giáo thọ lần lượt hỏi người xin thọ giới về các già nạn.

Ông có phạm vào biên tội không?

Ông có quan hệ không đúng đắn với tỳ-kheo ni không?

Ông có vì dụng ý xấu mà muốn xuất gia không?

Trước đây ông có theo ngoại đạo, xin thọ giới rồi trở lại theo ngoại đạo, nay đến xin thọ giới nữa hay không?

Ông có phải người đã thiến dương vật không?

Ông có phạm các tội giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng... hay không?

Ông có phải hạng bán nam bán nữ không?

Ông tên là gì?

Hòa thượng của ông tên là gì?

Ông đã đủ hai mươi tuổi hay chưa?

Cha mẹđồng ý cho ông xuất gia hay không?

Ông có phải là người còn đang làm việc công, hoặc đang thiếu nợ hay không?

Ông có mắc các chứng bệnh nan y, bệnh tâm thần hay không?...

Người thọ giới phải lần lượt trả lời thông suốt từng câu hỏi trên. Nếu vướng phải một trong các vấn đề ấy thì không thể cho thọ giới. Thầy giáo thọ lại nói tiếp:

Những điều ta đã hỏi ông đây, chúng tăng rồi cũng sẽ hỏi lại như vậy. Ông lại phải như thật mà đáp không được sai khác.

Sau khi hỏi xong, thầy giáo thọ trở lại chỗ giới đàn, đứng thẳng người thưa với đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng! Đệ tử tên ... ... theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nếu như đã phải lúc thích hợp, chư tăng đều ưng thuận, tôi vừa đến hỏi xong về các già nạn, xin cho phép đệ tử ấy vào đây để đại chúng xem xét.

Như đại chúng không có ai lên tiếng, tức là đã ưng thuận, thầy giáo thọ liền lớn tiếng gọi người xin thọ giới: “Hãy vào đây.”

Khi người xin thọ giới đã vào đến, liền dạy đưa y bát cho vị giới sư, rồi làm lễ hết thảy chúng tăng. Sau đó, đến trước vị giới sưcầu thọ giới như thế này:

Kính bạch chư đại đức tăng! Tôi theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay xin chúng tăng thuận cho tôi được thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Xin chúng tăng từ bi thương xót cho tôi được thọ giới.

Cầu xin như vậy đủ ba lần. Vị giới sư liền đứng ra thưa với đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay đối trước chúng tăng xin được thuận cho thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Nếu như đã phải lúc thích hợp, chư tăng đều ưng thuận, tôi xin hỏi đệ tử ... ... về các sự ngăn trở việc xuất gia.

Sau khi thưa trước đại chúng như vậy rồi, liền nói với người xin thọ giới rằng:

Ông nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi ông, điều nào đúng thật, phải nói là đúng thật, như có gì không thật, phải nói là không thật.

Sau đó, vị giới sư lập lại các câu hỏi mà thầy giáo thọ đã hỏi lúc nãy. Người xin thọ giới phải như thật trả lời thông suốt.

Nếu trả lời không có gì trở ngại, vị giới sư liền thưa trước đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới, nay xin với chúng tăng cho được thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Đệ tử tên ... ... tự nói là trong sạch, không có các sự ngăn trở việc xuất gia, đã đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ. Nay xin chúng tăng cho đệ tử này thọ cụ túc giới. Trong chư đại đức tăng, vị nào ưng thuận xin lặng yên chấp nhận, vị nào không ưng thuận xin tùy tiện nói ra.

Vị giới sư lập lại như vậy đến ba lần. Nếu trong chúng tăng không có ai phản đối, tức là đã chuẩn thuận cho việc thọ cụ túc giới. Mọi việc cứ y theo như vậy tiến hành.

Vị giới sư nói tiếp với người xin thọ giới:

Ông hãy lắng nghe đây. Đức Như Lai Vô sở trước Chánh đẳng giác đã dạy bốn pháp ba-la-di. Nếu tỳ-kheo nào phạm vào thì không được nhận là tỳ-kheo nữa, không phải hàng đệ tử Phật. Ông hãy nghe cho rõ các pháp ấy.

1. Không được phạm vào sự dâm dục, làm chuyện không trong sạch. Nếu tỳ-kheo không giữ hạnh trong sạch, làm chuyện dâm dục, thậm chí với loài súc sanh, không còn là sa-môn, không phải là đệ tử Phật nữa. Như gạch đá đã bể nát ra, không thể nào hợp lại được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

2. Không được trộm cắp, cho dù là những món cỏ lá nhỏ nhặt. Nếu tỳ-kheo trộm lấy của người khác, hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác trộm lấy, tự mình chặt phá, hoặc sai bảo người khác chặt phá, hoặc chôn giấu, hoặc làm thay đổi màu sắc để cho đồ vật ấy trở thành của mình, không còn là sa-môn, không phải đệ tử Phật nữa. Như người đã bị cắt đứt đầu, không thể sống lại được. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

3. Không được cố ý đoạn dứt sanh mạng của bất cứ chúng sanh nào, cho đến loài nhỏ nhoi như sâu kiến cũng vậy. Nếu tỳ-kheo tự tay đoạn dứt sanh mạng của người, hoặc cầm dao bén đưa cho người khác, bảo người khác là nên chết, khen ngợi, khuyến khích sự chết, dùng thuốc độc, hoặc phá thai, hoặc thư ếm, nguyền rủa người ta cho chết, dù tự mình làm hoặc chỉ bảo sai khiến người khác làm đều không còn được xem là sa-môn, là đệ tử Phật nữa. Như cây đa-la, trong ruột cây đã bị cắt đứt thì không thể sống được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

4. Không được nói lời gian dối, sai sự thật, cho đến dù là lời nói chơi để đùa vui cũng không được. Nếu tỳ-kheo không chân thật, tự mình không có mà xưng là đã chứng đắc pháp cao thượng, được định, được Bốn không định, đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm hoặc A-la-hán, lại nói có trời, rồng... đến cúng dường cho mình, như vậy không phải là sa-môn, không phải là đệ tử Phật nữa. Như cây kim may bị sứt mất đít kim, chẳng thể dùng lại được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Sau đó, sư Yết-ma dạy cho bốn điều để tỳ-kheo suốt đời nương theo, gọi là Tứ y pháp:

1. Người xuất gia trọn đời chỉ mặc y phục may từ những vải vụn đã bỏ đi mà chắp lại. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường y phục mang nhuộm cho xấu đi thì có thể dùng được.

2. Người xuất gia trọn đời chỉ đi khất thực mà ăn. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có những dịp đặc biệt như chúng tăng cử đi thọ thực, thí chủ mang đến cúng dường, các ngày mùng 8, rằm, mùng một, hoặc thức ăn thường dùng của chúng tăng, hoặc thí chủ thỉnh đến cúng dường, có thể thọ nhận.

3. Người xuất gia trọn đời chỉ ngủ dưới gốc cây. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường phòng riêng, phòng nhỏ, nhà đá, nhà hai phòng... thì có thể thọ nhận.

4. Người xuất gia trọn đời chỉ dùng những món đắng, hôi mà làm thuốc khi có bệnh. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường sữa, dầu, sữa tươi, mật... thì có thể thọ nhận.

Cuối cùng, vị Yết-ma tuyên bố trước đại chúng rằng:

“Như vậy, ông đã được thọ cụ túc giới rồi, pháp yết-ma thọ giới như vậy đã thành tựu, được tốt đẹp, có hòa thượng, a-xà-lê đúng theo phép tắc, có chúng tăng chứng minh đầy đủ. Ông nên khéo thọ nhận giáo pháp, nên khuyến hóa việc làm phước, tu sửa tháp Phật, cúng dường chúng tăng. Hòa thượng và thầy giáo thọ dạy ông những gì đều đúng theo giáo pháp, phải một lòng vâng theo, không được trái lời... Hãy siêng năng học hỏi, tham thiền, tụng kinh, chuyên cần cầu phương tiện, ở trong pháp Phật được chứng đắc các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Việc phát tâm xuất gia ban đầu của ông có như thế mới không uổng phí, được quả báo không cùng tận. Như có điều chi chưa hiểu, hãy thưa hỏi hòa thượng và thầy giáo thọ.”

(Nghi thức thọ Đại giới của tỳ-kheo đến đây là hoàn tất. Nên cho người thọ giới lui ra.)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12490)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10362)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12330)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11636)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28799)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12045)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13002)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11440)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12366)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17434)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53019)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21385)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10675)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19232)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12402)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26032)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13309)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16070)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13725)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16825)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17567)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12516)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11604)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11596)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14499)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20458)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18984)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19554)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18642)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12175)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12294)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13841)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15016)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15033)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17185)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14971)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20187)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14608)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13835)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11700)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15050)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12987)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22862)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14550)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11644)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13155)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16879)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18329)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11934)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11490)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15844)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12867)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18902)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18415)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant