Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Mười ba pháp Tăng-Già Bà-thi-sa

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11688)
III. Mười ba pháp Tăng-Già Bà-thi-sa

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO

III. MƯỜI BA PHÁP TĂNG-GIÀ BÀ-THI-SA

_ Kính bạch chư đại đức tăng. Mười ba pháp tăng-già bà-thi-sa này, nửa tháng phải tụng đọc một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Như có tỳ-kheo nào, cố ý kích thích dương vật cho xuất tinh, phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa, trừ trường hợp trong giấc ngủ mê.

2. Như có tỳ-kheo nào, khởi tâm dâm dục, cùng xúc chạm thân thể với nữ nhân, hoặc nắm tay, hoặc vuốt tóc, hoặc xúc chạm một phần thân thể, phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

3. Như có tỳ-kheo nào, khởi tâm dâm dục, dùng những lời thô tục, gợi dục mà nói với nữ nhân, phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

4. Như có tỳ-kheo nào, khởi tâm dâm dục, trước mặt nữ nhân tự khen ngợi thân mình, xưng là người trì giới, trong sạch, tinh tấn tu các pháp lành, nên dùng sự hành dâm mà cúng dường là cách cúng dường cao quý nhất. Tỳ-kheo nói như vậy, phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

5. Như có tỳ-kheo nào đi lại làm môi giới giữa đôi bên trai gái, chuyển lời qua lại giữa đôi bên, hoặc sau thành chồng vợ, hoặc chỉ dan díu cùng nhau, dù là thoáng chốc. Tỳ-kheo như vậy, phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

6. Như có tỳ-kheo nào muốn xây dựng tịnh thất riêng, không có thí chủ làm cho, tự mình đứng ra làm, phải tuân theo kích cỡ vừa phải: bề rộng không quá 4 mét, bề sâu không quá 7 mét. Lại phải nhờ các tỳ-kheo khác đến xem xét chọn địa điểm. Các tỳ-kheo được thỉnh đến xem xét, nên chọn nơi không có hiểm nạn và không trở ngại việc tu tập mà chỉ cho.

Nếu tỳ-kheo không có thí chủ giúp cho, tự mình xây dựng tịnh thất nơi chỗ có hiểm nạn, trở ngại cho việc tu tập, cũng không nhờ các tỳ-kheo khác đến xem xét địa điểm, lại rộng lớn hơn kích cỡ vừa phải. Tỳ-kheo như vậy phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

7. Như có tỳ-kheo nào muốn xây dựng chùa lớn, có người thí chủ vì mình mà làm, phải nhờ các tỳ-kheo khác đến xem xét chọn địa điểm. Các tỳ-kheo được thỉnh đến xem xét, nên chọn nơi không có hiểm nạn và không trở ngại việc tu tập mà chỉ cho.

Nếu tỳ-kheo có người thí chủ vì mình mà làm, xây dựng chùa lớn nơi chỗ có hiểm nạn, trở ngại cho việc tu tập, không nhờ các tỳ-kheo khác đến xem xét địa điểm. Tỳ-kheo như vậy phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

8. Như có tỳ-kheo nào, vì sự nóng nảy, tức giận che lấpvô cớ vu cáo cho tỳ-kheo khác là phạm tội ba-la-di, vì muốn hủy hoại sự trong sạch của vị ấy. Thời gian sau, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tỳ-kheo ấy biết mình đã vô cớ vu cáo nên nói ra rằng: “Điều ấy là do tôi tức giận mà nói như vậy thôi.” Tỳ-kheo như vậy, phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

9. Như có tỳ-kheo nào, vì sự nóng nảy, tức giận che lấp nên dựa vào những căn cứ mà tự mình biết là sai lệch, không đúng, để vu cáo cho tỳ-kheo khác là phạm tội ba-la-di, vì muốn hủy hoại sự trong sạch của vị ấy. Thời gian sau, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tỳ-kheo ấy biết mình đã dựa vào những chứng cứ sai lệch, không đúng, nên nói ra rằng: “Điều ấy là do tôi tức giận mà nói như vậy thôi.” Tỳ-kheo như vậy, phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

10. Như có tỳ-kheo nào muốn phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, thực hiện việc phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, rồi cố giữ mãi không từ bỏ. Những tỳ-kheo khác nên can ngăn rằng: “Đại đức, không nên muốn phá sự hòa hiệp của chúng tăng, không nên thực hiện việc phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng. Không nên theo những pháp phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng rồi cố giữ mãi không từ bỏ. Đại đức nên cùng với chúng tăng sống hòa hiệp, vui vẻ, không tranh cãi nhau. Cùng theo học một thầy, nên hòa hợp nhau như sữa hòa trong nước, như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Cho đến lần thứ ba, nếu tỳ-kheo ấy chịu nghe thì tốt, bằng không chịu nghe theo là phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

11. Như có tỳ-kheo có bè đảng, hoặc một người, hoặc hai, ba người cho đến rất nhiều người. Các tỳ-kheo bè đảng nói với chúng tỳ-kheo rằng: “Đại đức, xin đừng can ngăn vị ấy. Vị ấy nói ra đúng Chánh pháp, đúng Giới luật. Những điều vị ấy nói ra làm cho chúng tôi vui thích, có thể chấp nhận được.”

Chúng tỳ-kheo nên can ngăn tỳ-kheo ấy rằng: “Đại đức chớ nên nói như thế. Chớ nên nói rằng tỳ-kheo ấy nói đúng Chánh pháp, nói đúng Giới luật, nói điều vui thích, có thể chấp nhận được. Thật ra tỳ-kheo ấy nói những điều trái Chánh pháp, trái Giới luật. Đại đức, xin đừng mong muốn phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng. Chúng ta nên cùng với chúng tăng sống hòa hiệp, vui vẻ, không tranh cãi nhau. Cùng theo học một thầy, nên hòa hợp nhau như sữa hòa trong nước, như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Cho đến lần thứ ba, nếu tỳ-kheo ấy chịu nghe thì tốt, bằng không chịu nghe theo, là phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

12. Như có tỳ-kheo nào đến ở trong thôn xóm, làm hoen ố nhà người, cùng làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết. Các tỳ-kheo khác nên can ngăn tỳ-kheo ấy rằng: “Đại đức làm hoen ố nhà người, cùng làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết. Nay ông nên rời bỏ chỗ thôn xóm này, không nên ở đây nữa.”

Tỳ-kheo ấy đáp rằng: “Đại đức, nay các tỳ-kheo đều có yêu, có giận, có sợ, có ngu si; cũng có những tỳ-kheo đồng tội như vậy. Sao có người lại bị đuổi, có người không bị đuổi?”

Các tỳ-kheo khác lại can ngăn rằng: “Đại đức không nên nói như vậy. Không nên nói chư tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si, có những người đồng tội như vậy, có người bị đuổi, có người không bị đuổi. Quả thật chư tỳ-kheo không có yêu, có giận, có sợ, có ngu si. Đại đức làm hoen ố nhà người khác, làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết.”

Nếu tỳ-kheo sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Cho đến lần thứ ba, nếu tỳ-kheo ấy chịu nghe thì tốt, bằng không chịu nghe theo, là phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

13. Như có tỳ-kheo nào tánh tình xấu ác, chẳng chịu nghe lời người khác. Với những việc trong giới pháp, các tỳ-kheo khác đã theo đúng pháp mà can ngăn, nhưng tỳ-kheo ấy tự thân không nghe, nói rằng: “Các vị đại đức, xin đừng nói những chuyện tốt xấu của tôi. Tôi cũng không nói những chuyện tốt xấu của các vị. Xin các vị hãy thôi đi, đừng nhiều lần can ngăn tôi như thế.”

Các tỳ-kheo khác lại can ngăn rằng: “Đại đức, không nên tự mình chẳng chịu nghe lời can ngăn của kẻ khác. Đại đức nên biết nghe lời can ngăn. Chúng ta nên theo đúng pháp mà can ngăn lẫn nhau, mà dạy bảo cho nhau, bảo nhau sám hối lỗi lầm, có như vậy thì hết thảy đệ tử của Phật đều được tăng thêm phần lợi ích.”

Nếu tỳ-kheo sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Cho đến lần thứ ba, nếu tỳ-kheo ấy chịu nghe thì tốt, bằng không chịu nghe theo là phạm vào tội tăng-già bà-thi-sa.

_ Kính bạch chư đại đức. Tôi đã thuyết xong mười ba pháp tăng-già bà-thi-sa. Chín pháp đầu là phạm vào thành tội ngay, bốn pháp sau là qua ba lần can ngăn mới thành tội. Như có tỳ-kheo nào phạm vào một trong các pháp tăng-già bà-thi-sa này, biết là phạm vào mà cố tình che giấu, nên buộc phải chịu phép biệt trú. Sau khi biệt trú xong, phạt thêm sáu ngày đêm cấm phòng nữa. Chịu phép cấm phòng rồi, phải làm nghi thức xuất tội, có sự tham dự của ít nhất là 20 vị tỳ-kheo thanh tịnh. Nếu không đủ số 20 vị tỳ-kheo mà làm nghi thức xuất tội, thì tội ấy chẳng những không được tiêu trừ, mà các vị tỳ-kheo tham gia cũng đáng quở trách.

Với mười ba pháp tăng-già bà-thi-sa này, xin hỏi chư đại đức, trong chúng tăng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại đức, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong chúng tăng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22273)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16008)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15020)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18941)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14438)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18616)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14410)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13576)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13542)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11807)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13227)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13644)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13922)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13242)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15017)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16151)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11077)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16444)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11894)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17582)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12866)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13696)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12851)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14850)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16376)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12076)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12762)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12893)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12767)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14158)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14101)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16461)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12374)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14375)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11298)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11021)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13187)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13883)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13151)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12995)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13492)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12724)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10230)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13958)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10218)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13697)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11949)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12965)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11637)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12664)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10791)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10976)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10931)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11888)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11060)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12611)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11313)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant