Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương IV: Những Tướng Của Hành Vi Đạo Đức

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12348)
Chương IV: Những Tướng Của Hành Vi Đạo Đức


Chương IV: Những Tướng Của Hành Vi Đạo Đức

Tiết thứ nhất:

HÀNH VI ÐẠO ÐỨC.

1- HÀNH VIHÀNH ÐỘNG.

Những điểm đã được trình bày ở trên là liên quan đến những tác dụng tâm lý đạo đức, nghĩa là lấy động cơ làm điều kiện quyết định; và vì lấy động cơ làm điều kiện tiên quyết, nên cái đối tượng chính đề bình giá đạo đứchành vi. Nói theo thuật ngữ đó là “nghiệp” trong các A-tỳ-đạt-ma có các chương mục gọi là “Nghiệp phẩm”[1] chính là xử lý vấn đề này. Tiến lên bước nữa, trong đó từ chủ thể của hành vi đến những hành vi thiện, ác cụ thể, đem chia ra từng loại rồi lấy việc tu hành để nói rõ cái sở cứ của nó.

Trước hết hãy nói về hành vi nhất ban: tức muốn đánh giá đạo đức, trước phải bàn về điều kiện nhất ban của hành vi. Tất cả hành động của người ta đều phải được bình giá về mặt đạo đức, vì không phải hành vi, khi đến hành động rồi nó bao hàm những điều kiện như thế nào sẽ phát sinh nghi vấn về hành vi, bởi thế nên cần phải quy định trước. 

2- CÁC LOẠI HÀNH VI.

Nói về mặt tâm lý thì trung tâm của hành vi là tư (ý chí). Ngoài tư ra, hoặc có thể thành lập hành động vô ý thức (bất cố tác nghiệp), nhưng không thể thành lập cái gọi là hành vi ý thức (cố tác nghiệp) được. Theo ý nghĩa ấy, đức phật đã nói: “Như Lai nói tư nghiệp”. Ðến thời đại Bộ-phái hoặc như Kinh-Bộ chủ trương ba nghiệp thân, khẩu, ý đều là một tư. Song, ở đây có điều ta cần chú ý là: cứ theo Phật giáo cơ giới chủ nghĩa thì tư duy được coi là tâm sở đơn độc nhưng sự phát động của nó có nhiều giai đoạn. Nếu nói theo ngôn ngữ ngày nay thì trong cùng những tác dụng được gọi là ý chí cũng có sự khu biệt về nội ý chí và ngoại ý chí khác nhau. Phật giáo cũng chia nó thành hai hay ba đoạn để quan sát. Hai đoạn là tư nghiệp, tư dĩ nghiệp. Sự phân loại này đã có từ thời Phật giáo nguyên thủy (về tư nghiệp và dĩ tư nghiệp, có thể tham chiếu Xá-Lợi-Phất A-Tỳ-đàm-luận, quyển 17; Câu-Xá luận, quyển 13; Thành thật luận, quyển 7, Nghiệp tướng phẩm 95; Trung-a-hàm, quyển 27, Ðạt-phạm-hạnh-kinh v.v…) còn ba đoạn là thẩm lự tư, quyết dịnh tư và phát động tư, sự phân loại này được coi là của Kinh-Bộ (xem Câu-Xá, quyển 1) và thành nghiệp luận của Thế thân cũng thu dụng sự phân loại này. Duy vấn đề ở đây được đặt ra là: giả dụ như thế thì, về mặt luân lý, nên bắt đầu từ đâu để bình giá thiện, ác? Nói cách khác trong thẩm lự tư đã có thiện, ác, hay đợi đến tư dĩ thành hoặc phát động tư mới, quyết định thiện, ác? Vấn đề chính là ở đó.

Ðối chiếu với Phật Giáo Nguyên Thủy, Ma-ca-lợi-ka-tát- lạt và Kỳ-na-giáo chuyên lấy hành vi bên ngoài làm chủ; Phật giáo thì chuyên chú trọng ở tâm căn, điểm này, trong các kinh điển Phật giáo đã cho ta thấy rõ. Tức là về hành vi nhất ban, trong ba nghiệp thân, khẩu, ý Ma-ca-lợi-ka-tát-lạt đặc biệt cho hai nghiệp thân, khẩu là trọng yếu, Ðại-Hùng hơi nhấn mạnhý nghiệp, còn đức Phật thì lấy ý nghiệp làm chủ mà cho thân và khẩu chỉ là những tác dụng thứ yếu: đó là điểm bất đồng giữa ba phái tu dưỡng (đạo đức) lớn thời bấy giờ. Như vậy, khi phê phán hành vi về mặt đạo đức, hay khi phân xử về mặt pháp luật, đức Phật thường hỏi về động cơ của nó trước hết. Chẳng hạn, một hôm có một vị Tỳ-Khưu vì giết con rắn mà đến nỗi giết lầm (ngộ sát) một người, khi luận tội, đức Phật đã không luận tội giết người mà chỉ luận về tội đã phạm giới sát sinh và chiếu theo đó mà phán quyết, cứ xem thế thì đủ thấy rõ cái tinh thần của Phật ở chỗ nào rồi. Nhưng dù nói sao đi nữ thì luân lý vẫn là cái quan hệ quy định giữa người với người, và nó có ý nghĩa hay giá trị là như cái kết quả có thể tăng thêm hạnh phúc cá nhân hoặc xã hội. Tuy chỉ đặc biệt chú trọng ở tâm căn nhưng nếu kết quả mang lại bất lợi cho người thì giá trị của nó tất phải giảm thiểu, điều đó tưởng không cần nói ai cũng biết. Bởi thế, đức Phật trước sau tuy chủ trương động cơ luận, nhưng đối với kết quả của hành vi cũng rất chú ý. Dù cho động cơ tốt mà kết quả bất hảo thì cũng vẫn bị lên án, bởi lẽ nó đã không khế hợp với ý nghĩa như thực tri kiến. Về điểm này, trong Bản-sinh-đàm có một thí dụ rất lý thú. Thuở xưa, vua Phạm-Thụ trị vì nước Ba-la-ni-tư, trong vườn nhà vua nuôi rất nhiều khỉ. Một hôm có lễ tế sao người làm vườn muốn đi xem bèn nhờ mấy con khỉ tưới cây. Khi tưới xong, khỉ muốn biết cây đã đủ thấm nước chưa liền nhổ từng cây để nhìn tận gốc và kết quả là tất cả các cạy đều chết khô hết. Bồ-Tát thấy thế mới nói rằng: “Người không có đủ trí sáng suốt, dù có muốn làm thiện sự cũng không có kết quả; kẻ ngu làm hại việc có ích cũng như khi làm cho cây phải chết khô”.

Câu truyện trên đây tuy là truyện buồn cười, nhưng trong đó ta thấy rõ một chủ trương và kết-quả-luận căn cứ nơi tinh thần Phật giáo.

3- ÐỐI TƯỢNG ÐỂ BÌNH GIÁ ÐẠO ÐỨC.

Như vậy, đến Phật giáo Bộ-phái, đại thể tuy nhất trí ở điểm đặt nặng nơi động cơ, nhưng về trình độ thì giữa các bộ phái đã phát sinh những ý kiến bất đồng. Tức là, giữa sự triệt để coi trọng động cơ khi hành vi hoàn tất mới đưa ra phán đoán về đạo đức, đã có những ý kiến khác nhau. Mà cái đối tượng để phê phán về đạo đức có thể hay không căn cứ vào động cơ, hoặc vào cái gọi là vô biểu (vô tác) do hành vi phát sinh, hay còn được gọi là nghiệp tập chủng tử huân tập nơi tổ chứ ý chí hay hành vi có thể trở thành nguyên nhân đưa đến quả báo họa, phúc tương lai không? Vấn đề này đã trở thành một dặc trưng lớn rất hiển trứ của Phật giáo bộ phái. Nói cách khác, duy chỉ y vào động cơ khong thôi là đã hoàn thành nghiệp tập chiêu cảm quả báo trong tương lai, hay phải y vào kết quả của tính chất hành vi mới hoàn toàn trở thành vô biểu? Vấn đề này đã biến thành tiêu điểm nghị luận.

Nói một cách đại thể, những nhà đứng về phương diện kiến giải sinh cơ chủ nghĩa thì trước sau vẫn chủ trương thuyềt động cơ (tức tám cân); còn những nhà đứng về phương diện kiến giải cơ giới chủ nghĩa, đối với kết quả luận, cũng rất chú ý, nhưng theo một trường hợp nào đó, gần như là các nhà kết quả luận, cũng rất chủ trương tuyết Tư. Theo văn hiến hiện còn lưu truyền thì bộ phái chủ trương chủ nghĩa tinh thần nhất là Phân-biệt-thuyết-bộ. Cứ theo Ðại-tỳ-ba-sa-luận thì Phân-biệt-thuyết bộ cho tham dục, sân huệ và tà kiếntự tính của nghiệp. Bà-sa quyển 113, ở cuối bài tựa có dẫn Khế-Kinh nói: “Cho nên tư tạo ba nghiệp thân, đã tạo đã tập là bất thiện, có thể sinh các thống khổ, cảm khổ dị thục; Tư tạo bốn nghiệp khẩu, ba nghiệp ý, đã tạo, đã tập, là ác, có thể sinh các thống khổ, cảm khổ dị thục. Ba nghiệp của ý là tham, huệ, tà kiến”. Rất tiếc là tôi vẫn chưa có thể chỉ rõ Phân-biệt-thuyết-bộ này thuộc về phái nào. Vì chủ trương của bộ này quá đơn giản nên vẫn còn có chỗ chưa được rõ. Tuy nhiên, bất luận thế nào đi nữa; coi trạng thái tinh thần là chủ thể của nghiệp là một điều hẳn không cìn hồ nghi gì nữa. Thứ đến là nhấn mạnh về phương diện động cơ làm đại biểu là chủ trương của Thí-dụ-sư hay của Kinh-Bộ mà mọi người đều biết để đối lại nghị-luận của Hữ-Bộ vốn là cơ giới chủ nghĩa. Về văn hiến liên quan đến các chủ trương trên đây, thấy rải rác trong các luận Ðại-tỳ-ba-sa, Câu-xá và Thành-thật v.v…

Như đã nói ở trên, Kinh-Bộ không nững không thừa nhận ý nghĩa sắc pháp vô biểu của Hữu-Bộ mà còn công kích nó kịch liệt nữa (Câu-Xá quyển 13). Nhưng tương đương với vô biếu sắc của Hữu-Bộ là chủng tử do tư huân tập, thì Kinh-Bộ thừa nhận thuyết này, cho rằng vì chủng tử nhỏ nhiệm, biến chuyển không ngừng và luôn luôn sai biệt nên có thể chiêu cảm quả báo trong tương lai (Câu-Xá quyển 13). Tức phối hợp chủ nghĩa cơ giới của Hữu-Bộ với lập trường sinh cơ chủ nghĩa để thừa nhận. Thừa kế Kinh-Bộ là Thành-thật-sư vẫn thừa nhận vô-tác (tức vô-biểu) là một thứ vô biểu cũng là theo ý nghĩa trên này. Tóm lại, sự giải thích về vô biểu có điểm bất đồng. Nhưng đây chỉ khác nhau về hình thái thuyết minh mà thôi, chứ về bản chất, tức cái thế lực còn lại của nghiệp tập, thì bất luận là Hữu-Bộ, Kinh-Bộ hay Thành-thật đều đồng nhất thừa nhận. Ðiểm bất đồng là: khi hành vi tiến đến trình độ nào thì thành vô biểu? Theo Hữu-Bộ thì trong ba nghiệp thân, khẩu, ý đã thành biểu nghiệp, vì là nghiệp thân, khẩu cho nên vô biểu cũng y vào hành vi bểu hiện ra thân, khẩu, chứ không phải chỉ y vào ý nghiệp không thôi (Câu-Xá quyển 13). Ðương nhiên, nếu không căn cứ vào ý nghiệp (tức tư) thì dù hành vi của thân, khẩu có tình cờ phát kiến thiện hay ác cũng không thể phát được vô biểu. Ðồng thời, lại chủ trương nếu chỉ có ý nghiệp không thôi thì cũng không thể phát sinh vô biểu; như khi luận về phá giới, giữa giới, Hữu-Bộ cho rằng dù tâm có ý muốn phá giới, nhưng nếu không biểu hiện ra thân thể hay ngôn ngữ thì không thể bảo là đã phá giới[2]. Ðây hiển nhiên là đã phát huy đặc sắc của kết-quả-luận. Kinh-Bộ phản đối thuyết này, bảo rằng cái gọi là nghiệp tất kinh chỉ là những tướng của một “tư” (ý chí), cho nên khi quyết đoán hành vi thiện, ác, đối với tư, cho dù nó chưa đạt đến giai đoạn thực hành, nhưng cái đã được huân tập trong tự thể ý chí tất nhiên sau sẽ trở thành nguyên nhân cảm thụ quả báo.

Đây là cái tương đương với vô-biểu của Hữu-Bộ. Trong Câu-Xá, quyển 13, Kinh-Bộ nói rõ như sau: “Như đã nói ở trên, hai biểu tư thù thắng nên khởi tư sai biệt, gọi là vô biểu” Tức Kinh-Bộ tuy không đặc biệt thừa nhận sự tồn tại của vô-biểu, lấy năng lực của tư làm cơ sở, theo ý nghĩa tính cách của chính tư mà thừa nhận vô biểu. Nặc khởi từ hệ thống Kinh-Bộ mà lại chủ trương quan điểm này một cách rõ ràng hơn là Thành-thật-luận. Trong quyển 7, Nghiệp tướng phẩm 95, có nói như sau:

Hỏi: Nếu bảo thân, khẩu có nghiệp riêng biệt thì ý và ý nghiệp là một hay khác?

Ðáp: Hai loại, hoặc ý tức ý nghiệp, hay từ ý sinh nghiệp. Nếu ý quyết định giết hại chúng sinhác ý, cũng là ý nghiệp, là nghiệp có thể tập thân, khẩu nghiệp tối thắng, nếu chưa quyết định tâm là ý thì ý với nghiệp khác nhau …

Hỏi: Chỉ có thân, khẩu có vô tác, còn ý có vô tác không?

Ðáp: Không! Vì trong đó không có nhân duyên, chỉ thân, khẩu nghiệpvô tác, ý không có vô tác; lại như trong kinh nói có hai loại nghiệp là tư và tư dĩ. Tư tức là ý nghiệp. Tư dĩ ba loại, từ tư nghiệp và thân, khẩu nghiệp. Ý nghiệp là quan trọng nhất, sẽ nói sau. Do trọng nghiệptụ tập gọi là vô tác, thường sinh khởi không ngừng, bởi thế nên biết ý nghiệp cũng có vô tác.

Ý nghĩa trong đoạn văn trên đây là nói rõ sự quyết ý không phải chỉ có trách nhiệm trọng đại đối với đạo đức khi biểu hiện ra thân, khẩu mà ngay từ động cơ nó cũng đã có trách nhiệm rồi. Về sau, Duy thức chủ trương ba nghiệp đều có vô biểu có lẽ cũng đã phát xuất từ lập trường này.

Tóm lại, trên đại thể, dù cho trong Phật giáo bộ phái cũng quyết không phải không lưu ý đến động cơ mà chỉ nhắm vào kết quả để định trách nhiệm đạo đức. Song, trách nhiệm đạo đức từ giai đoạn động cơ đến hành vi thì, như đã nói ở trên, giữa khoảng đó có những ý kiến bất đồng. Kinh-Bộ, Thành-thật-luận v.v… trước sau vẫn coi tâm căn là cơ sở đạo đức; còn Hữu-Bộ khi xử lý vấn đề này trên bình diện pháp luật, có thể nói, có điểm bất đồng.

4- CHÍNH ÐẠO.

Giữa khoảng động cơ và kết quả, về trách nhiệm đạo đức khinh hay trọng, tuy có những nghị luận khác nhau, nhưng bất luận nói cách nào đi nữa thì đạo đức tất phải đi đến hành vi mới hoàn thành ý nghĩa của nó chứ nếu chỉ căn cứ vào động cơ không thôi để phán đoán thiện, ác thì không được thỏa đáng. Thành-thật-luận chỉ trọng động cơ, cho tâm căn là thiện lương, không thể bảo tất cả việc thiện đều như thế được. Chẳng hạn, vì nuôi cha mẹ mà phải ăn cắp, hay vì muốn làm vừa lòng một người đàn bà mà phải thông gian với vợ người, thì dù tâm căn có thiện lương đi thế nào chăng nữa, nhưng trên bình diện đạo đức, người ta quyết không thể cho những việc làm ấy là phải được. Cũng thế, nếu cứ theo Thành-thật-luận thì vì lợi ích của nhiều người mà phải giết giặc cướp, vì cứu người mà phải nói dối, ở một phương diện tuy là thiện, nhưng ở một phương diện khác, tự thể của những hành vi ấy chưa hẳn đã là chính đáng (cùng một chủ ý đó, Thành-thật-luận đã dẫn những kinh thế-pháp bảo rằng chết trận sẽ được sinh lên cõi trời. Lại nói giết giặc không có tội, trái lại, nếu không giết thì đắc tội. Rồi lại dẫn chứng sáu pháp của Bà-La-Môn, bốn pháp của Sát-Ðế-Lợi, ba pháp của Phệ-Xá và một pháp của Thủ-đà-la v.v… Phê phán sự sai lầm của Bà-La-Môn chủ trương rằng giết động vật để cúng tế là việc thiện, của Sát-Ðế-Lợi bảo vì tự vệ mà phải giết người là thiện sự. Lại dẫn chứng kinh Thế-pháp bảo nếu trong bảy ngày phải nhịn đói thì có thể cướp giật lương thực của Thủ-đà-la mà không có tội, nếu gần chết đói mà lấy của Bà-La-Môn cũng không có tội. Dẫn chứng như thế để phê phán sự sai lầm của những chủ trương trên đây - quyển 7, Tam-nghiệp-phẩm 100). Ðiều thiện chân chính không những là tâm căn cố nhiên phải thiện mà kết quả của nó cũng phải khế hợp với chính nghĩa. Do đó, vấn đề được đặt ra ở đây là: hãy giả định là như vậy thì cái gọi là chính đạo rất ráo là chỉ cái gì? Về vấn đề này, theo chỗ tôi biết, trong Phật giáo không đặt ra một tiêu chuẩn nhất ban nào về điều thiện chân chính mà lấy cái gọi là “Thập thiện nghiệp đạo” để giải đáp. Vì lẽ thiện của tâm căn chủ yếu là liên quan đến những việc khách quan, chi nên, nếu lấy hai phương diện đó làm nguyên lý khái quát thì nó sẽ biến thành rất trừu tượng, không có cường lực về mặt thực hành, bởi thế, tôi tưởng nên biểu thịmột cách cụ thể hơn. Song nếu đúc kết tinh thần của nó để thuyết minh thì lý tưởng thiện chân chính tối caogiải thoát niết bàn, mà cái tiêu chuẩn thực hành lý tưởng đó là đồng thời với sự đề cao tính cách tự kỷ, đối với ngùi khác cũng phải mang lại một lợi ích gì và không được gây tổn hại cho bất cứ ai: có thể nói, chính đạo là ở chỗ đó.

5- HOÀN THÀNH HÀNH VI.

Giờ đây xin nói qua về thuận tự của những đức mục trong Thập thiện nghiệp đạo. Nhưng trước khi đi sâu vào từng mục, ở đây cần phải bàn qua về cái tướng trạng của sự hoàn thành hành vi. Tức là, động cơ và hành vi phát hiện qua một thuận tự như thế nào mới trở thành hìnht rạng hoàn toàn? Thích ứng với động cơ, đều có những hành động tương tương với động cơ, đây tuy là một nguyên tắc, nhưng về nhiều sự tình, không khỏi có những điểm hoàn toànbất hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu muốn nói rõ về điểm này, ta cũng cần đặc biệt chú ý đến kết quả nữa. Vì đây là ý kiến của Hữu-Bộ nên tôi tưởng ta cũng nên căn cứ vào Hữu-Bộ để trình bày vấn đề này.

Theo Hữu-Bộ, một hành vi, muốn hoàn thành về mặt đạo đức, trên đại thể, trước hết cần phải qua ba giai đoạn, tức là gia hành, căn bản nghiệp đạo, và hậu khởi. Thuyết này đã manh nha từ luận Phát-trí (trong quyển 11). Có thuyết “Bỉ gia hành vị tức”; Bà-sa, quyển 118, cũng bao hàm nghĩa hậu khởi này), đến luận Đại-tỳ-ba-sa nó đã biến thành ý thức, rồi tới luận Câu-xá, Nghiệp-phẩm, thì thuyết này đã trở nên rõ ràng. Tựu trung, gia hành, có thể nói là chuẩn bị; căn bản nghiệp đạo là cái đương thể quyết muốn làm, thừa nhận cái kết quả do hành vi đó mang lại. Dĩ nhiên, trong đó căn bản nghiệp đạo là chủ thể. Theo Câu-Xá, để hoàn thành căn bản nghiệp đạo, phải có bốn điều kiện, như khi giết người[3] chẳng hạn: 1- Ý chí nhất quyết sát hại (cố tư); 2- Phải có ý thức về một người đặc định nào (tha); 3- Nhận thức về người đặc định đó (tưởng); 4- Không còn lầm lẫn (bất ngộ). Nếu nhất ban hóa bốn điều kiện trên thì đó là một kế hoạch hoàn bị, một mục tiêu quyết địnhnhất định, có mục tiêu nhận thức, và cuối cùng không còn lầm lẫn hay nghi ngờ gì nữa. Ðiều kiện dẩn sẽ trở thành hành vi đạo đức hoàn toàn, bởi thế, đối với hành vi, chúng ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm (Câu-Xá, quyển 16). Cách thuyết minhtính cách quá pháp luật này, về mặt đạo đức luận tuy có điểm kỳ quái, nhưng về mặt thực hành luận, có thể nói, là sự chú ý quan sát thật chu đáo. Như vậy là Hữu-Bộ đã ứng dụng nó vào nhiều trường hợp, căn cứ vào nhất định hay bất định để luận về sự khinh, trọng của trách nhiệm đạo đức (vô biểu). Nhưng, về sự vô biểu đã nói ở trên rồi; ở đây không cần lập lại nữa.

6- QUAN HỆ GIỮA ÐẠO ÐỨC, LUÂN HỒIGIẢI THOÁT.

Cứ theo Phật giáo bộ phái hay Phật giáo nguyên thủy thì chủ thể hành vi của đạo đức tuy là ý chí thiện lương, nhưng đối với kết quả đó và những ảnh hưởng khác cũng rất chú ý. Khang Dức bảo đạo đức tính có giá trị trọng đại là điều chúng ta không thể bỏ qua. Thêm nữa, đạo đức của A-tỳ-đạt-ma, một mặt liên quan đến sự giải thích vấn đề luân hồi, mặt khác, thong đạt vấn đề đó, cuối cùng được coi là sự chuẩn bị để đi đến giải thoát, trên quan hệ, so với hành vi đạo đức thong thường thì phạm vi quan liên của nó vẫn phức tạp, nhiều ngả. Do đó, để quy định cái tính chất ấy, không phải chỉ ngừng ở động cơ hay kết quả, nhưng mà nó chỉ ở phạm vi luân hồi, hay liân hệ tiến đến giải thoát? Nó là hành vi của phàm phu hanh hành vi của thánh nhân? Đây là vấn đề cần phải được luận cứu. nhưng nó cũng rất phiền phức, cho nên, ở đây tôi không thể đi sâu vào từng điểm một mà chỉ đứng trên lập trường toàn thể của những chương mục về Nghiệp phẩm trong A-tỳ-đạt-ma để thử phân loại của người ta xem như thế nào.

Trong Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, quyển 7, có ghi những phân loại về Nghiệp phẩm như sau:

1- Tư nghiệp, tư dĩ nghiệp.

2- Có tác nghiệp, phi cố tác nghiệp.

3- Thụ gnhiệp, phi thụ nghiệp (nhận chịu hay không nhận chịu quả báo).

4- Thiểu thụ nghiệp, đa thụ nghiệp (chịu báo nhiều hay ít).

5- Thục nghiệp, phi thục nghiệp (báo gần hay xa).

6- Sắc nghiệp, phi sắc nghiệp (sắc là than, khẩu, phi sắc là ý).

7- Khả kiến nghiệp, bất khả kiến nghiệp (sắc nhập có thể thấy, pháp nhập không thể thấy).

8- Hữu đối nghiệp, vô đối nghiệp (thanh sắc nhập có đối, pháp nhập không có đối).

9- Thánh nghiệp, phi thánh nghiệp (vô lậuhữu lậu).

10- Hữu lậu nghiệp, vô lậu nghiệp.

11- Hữu ái nghiệp, vô ái nghiệp (hữu cầu và vô cầu).

12- Hữu cầu nghiệp, vô cầu nghiệp.

13- Đương thủ nghiệp, phi đương thủ nghiệp.

14- Hữu thủ nghiệp (hữu thắng), vô thủ nghiệp (vô thắng).

15- Hữu thắng nghiệp, vô thắng nghiệp (hữu thượng và vô thượng).

16- Thụ nghiệp, phi thụ nghiệp (nội nghiệp, ngoại nghiệp).

17- Nội nghiệp, ngoại nghiệp (thụ và phi thụ).

18- Hữu báo nghiệp và báo nghiệp.

19- Tâm tương ưng nghiệp, phi tâm tương ưng nghiệp.

20- Tâm số nghiệp, phi tâm số nghiệp (y vào duyên và phi duyên).

21- Duyên nghiệp, phi duyên nghiệp (y vào tâm sốphi tâm số).

22- Cộng tâm nghiệp, phi cộng tâm nghiệp (y vào tùy tâm chuyển và bất tùy tâm chuyển).

23- Tùy tâm chuyển nghiệp, bất tùy tâm chuyển nghiệp (y vào cộng tâm và bất cộng tâm).

24- Phi nghiệp tương ưng nghiệp, phi nghiệp tương ưng, phi phi nghiệp tương ưng nghiệp (tương ưng với tư hay không tương ưng).

25- Cộng nghiệp, bất cộng nghiệp (y vào tùy chuyển nghiệp và bất tùy chuyển nghiệp).

26- Tùy nghiệp chuyển nghiệp, bất tùy nghiệp chuyển nghiệp (y vào cộng nghiệp và bất cộng nghiệp).

27- Nhân nghiệp, phi nhân nghiệp (y vào duyên nghiệp và bất duyên nghiệp).

28- Hữu nhân nghiệp, hữu duyên nghiệp (hữu nhân = hữu duyên = hữu duyên chuyển nghiệp cộng nghiệp).

29- Hữu duyên nghiệp, hữu vi nghiệp (hữu duyên = hữu vi).

30- Tri nghiệp, phi tri nghiệp (tri như sự tri kiến và bất tri như sự tri kiến).

31- Thức nghiệp, phi thức nghiệp (y vào hết thảy nghiệp thức ý thức, như sự thức, và không).

32- Giải nghiệp, phi giải nghiệp (vào tri như sự tri kiến và bất tri như sự tri kiến).

33- Liễu nghiệp, phi liễu nghiệp.

34- Đoạn trí tri nghiệp, phi đoạn trí tri nghiệp (y vào bất thiện nghiệpthiện nghiệp).

35- Đoạn nghiệp, phi đoạn nghiệp (y vào bất thiện và thiện).

36- Tu nghiệp và bất tu nghiệp (y vào thiện, bất thiện, vô ký).

37- Chứng nghiệp, phi chứng nghiệp (y vào chứng như sự tri kiến và bất chứng như sự tri kiến).

38- Giáo nghiệp, vô giáo nghiệp (than, khẩu là giáo nghiệp, ý là vô giáo nghiệp; hay, sắc nhập vào giáo nghiệp, pháp nhập vô giáo nghiệp).

39- Thân hữu giáo nghiệp, thân vô giáo nghiệp.

40- Khẩu hữu giáo nghiệp, khẩu vô giáo nghiệp.

41- Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.

42- Giới nghiệp (thiện, bất thiện, vô ký).

43- Thân giới nghiệp, thân vô giới nghiệp, than phi giới phi vô giới nghiệp.

44- Khẩu giới nghiệp, khẩu vô giới nghiệp, khẩu phi vô giới nghiệp.

45- Ý giới nghiệp, ý vô giới nghiệp, ý phi giới phi vô giới nghiệp.

46- Thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, vô ký nghiệp.

47- Học nghiệp, vô học nghiệp, phi học phi vô học nghiệp.

48- Báo nghiệp, báo pháp nghiệp, phi báo, phi báo pháp nghiệp.

49- Kiến đoạn nghiệp, tư duy đoạn nghiệp, phi kiến đoạn, phi tư duy đoạn nghiệp.

50- Kiến đoạn nhân nghiệp, tư duy đoạn nhân nghiệp, phi tư duy đoạn nhân nghiệp.

51- Tỳ nghiệp, trung nghiệp, thắng nghiệp.

52- Thô nghiệp, tế nghiệp, vi nghiệp.
53- Thụ lạc nghiệp, thụ khổ nghiệp, thụ xả nghiệp (tam thụ tương ưng nghiệp).

54- Lạc thụ nghiệp, khổ thụ nghiệp, xả thụ nghiệp (nói về phương diện quả báo).

55- Lạc thụ nghiệp, khổ thụ nghiệp, phi lạc phi khổ nghiệp (y vào quả báo thiện, bất thiện, v

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33152)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6532)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11251)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30427)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7966)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12163)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11583)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12790)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34727)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52247)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10698)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10456)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13063)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21817)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9605)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7110)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10380)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16216)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16514)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13839)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13790)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14306)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11732)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16285)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15652)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12614)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14984)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13120)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14520)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20664)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13203)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10930)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20680)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14339)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20354)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17642)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31850)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12010)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant