Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

V. Một trăm bảy mươi tám pháp Ba-dật-đề

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11252)
V. Một trăm bảy mươi tám pháp Ba-dật-đề

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO NI

V. MỘT TRĂM BẢY MƯƠI TÁM PHÁP BA-DẬT-ĐỀ

_ Kính bạch chư đại đức tỷ. Một trăm bảy mươi tám pháp ba-dật-đề này, nửa tháng phải tụng đọc lại một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Như có tỳ-kheo ni nào biết là điều sai sự thật mà vẫn nói ra, phạm vào tội ba-dật-đề.

2. Như có tỳ-kheo ni nào dùng nhiều lời hủy nhục người, phạm vào tội ba-dật-đề.

3. Như có tỳ-kheo ni nào dùng cách nói hai lưỡi, phạm vào tội ba-dật-đề.

4. Như có tỳ-kheo ni nào ngủ qua đêm trong cùng một nhà với đàn ông, phạm vào tội ba-dật-đề.

5. Như có tỳ-kheo ni nào ngủ qua đêm trong cùng một nhà với người nữ chưa thọ giới cụ túc quá ba đêm, phạm vào tội ba-dật-đề.

6. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người chưa thọ cụ túc giới tụng đọc kinh điển, phạm vào tội ba-dật-đề.

7. Như có tỳ-kheo ni nào đem việc phạm tội thô ác của tỳ-kheo ni khác nói với người chưa thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp do chúng tăng sai khiến.

8. Như có tỳ-kheo ni nào đem việc mình chứng đắc hơn người nói với người chưa thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

9. Như có tỳ-kheo ni nào thuyết pháp quá năm, sáu câu với người phái nam, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp có một người nữ sáng suốt cùng ở đó.

10. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay đào xới đất, hoặc sai bảo người khác làm, phạm vào tội ba-dật-đề.

11. Như có tỳ-kheo ni nào phá hại mầm giống cho đến các loại cây cỏ đang còn sống, phạm vào tội ba-dật-đề.

12. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý nói ra những lời quanh co, khúc chiết, không đúng với sự việc, gây phiền toái cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

13. Như có tỳ-kheo ni nào chê bai, nhiếc mắng vị làm tri sự, phạm vào tội ba-dật-đề.

14. Như có tỳ-kheo ni nào tự mình lấy, hoặc nhờ người khác lấy các vật dụng của chúng tăng như ghế, giường, ngọa cụ... mang ra chỗ trống để dùng. Khi dùng xong, trước khi rời đi không dẹp cất lại chỗ cũ, cũng không nhờ người khác dẹp cất lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

15. Như có tỳ-kheo ni nào ở trong tăng phòng, tự mình lấy, hoặc nhờ người khác lấy các vật dụng của chúng tăng như ghế, giường, ngọa cụ mà dùng. Khi dùng xong, trước khi rời đi không dẹp cất lại chỗ cũ, cũng không nhờ người khác dẹp cất lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

16. Như có tỳ-kheo ni nào, biết chỗ nghỉ của tỳ-kheo ni khác, khi đến sau lại mang ngọa cụ trải ra mà nằm, tự nghĩ rằng: “Nếu bà ấy có chê là chật chội thì cứ việc tránh ta mà đi nơi khác.” Chỉ vậy, không có lý do nào khác, không hợp với oai nghi, phạm vào tội ba-dật-đề.

17. Như có tỳ-kheo ni nào do tức giận tỳ-kheo ni khác, trong lòng không vui, liền xô đuổi hoặc sai khiến người khác xô đuổi tỳ-kheo ni ấy ra khỏi tăng phòng, phạm vào tội ba-dật-đề.

18. Như có tỳ-kheo ni nào ở tầng gác cao, nằm hoặc ngồi trên giường đã bị lỏng chân, phạm vào tội ba-dật-đề.

19. Như có tỳ-kheo ni nào biết là nước có trùng mà tự mình dùng, tưới lên bùn đất, cây cỏ, hoặc sai bảo người khác làm như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

20. Như có tỳ-kheo ni nào làm phòng lớn có cửa song, cửa sổ và các vật trang hoàng, chỉ được lợp mái từ hai đến ba lớp. Nếu quá mức, phạm vào tội ba-dật-đề.

21. Như có tỳ-kheo ni nào đến chỗ thí chủ cúng dường một bữa ăn, không có bệnh chỉ được thọ nhận một bữa. Nếu quá, phạm vào tội ba-dật-đề.

22. Như có tỳ-kheo ni nào thọ thỉnh ăn thành chúng riêng, phạm tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như khi có bệnh, khi may y, khi nhận cúng y, khi đi đường xa, khi đi tàu thuyền, khi đại chúng tụ họp đông đảo, khi các thầy tu ngoại đạo cúng dường.

23. Như tỳ-kheo ni thọ thỉnh cúng dường ở nhà cư sĩ, được ân cần mờ các thứ bánh hoặc lương khô, nếu muốn có thể nhận đến hai hoặc ba bát mang về chùa phân chia cho các tỳ-kheo ni khác cùng ăn. Như tỳ-kheo ni không có bệnh mà thọ nhận nhiều hơn hai hoặc ba bát, khi về chùa không phân chia cho các tỳ-kheo ni khác cùng ăn, phạm tội ba-dật-đề.

24. Như có tỳ-kheo ni nào ăn phi thời, phạm tội ba-dật-đề.

25. Như có tỳ-kheo ni nào ăn thức ăn chứa trữ từ hôm trước, phạm vào tội ba-dật-đề.

26. Như có tỳ-kheo ni nào, không phải thức ăn hoặc thuốc cúng dường cho mình mà để vào trong miệng, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ ra nước và nhành dương.

27. Như có tỳ-kheo nào trước đã thọ thỉnh cúng dường, sau đó trước hoặc sau giờ thọ thực lại đến nhà khác mà không báo cho tỳ-kheo khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như có bệnh, hoặc khi nhận cúng y, khi may y.

28. Như có tỳ-kheo ni nào khất thực trong nhà có đồ quý giá, cố ngồi nán lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

29. Như có tỳ-kheo ni nào khất thực trong nhà có đồ quý giá, đến chỗ khuất trong nhà mà ngồi, phạm vào tội ba-dật-đề.

30. Như có tỳ-kheo ni nào ngồi riêng với nam giới ở chỗ trống trải, phạm vào tội ba-dật-đề.

31. Như có tỳ-kheo ni nào bảo tỳ-kheo ni khác cùng đi với mình đến chỗ thôn xóm kia, nói rằng có thể nhận được thức ăn. Đến nơi không cho ăn, lại xô đuổi vị kia rằng: “Bà nên đi đi. Tôi ngồi với bà, nói chuyện với bà không được vui, tôi ngồi một mình sẽ được vui vẻ.” Nói thế không ngoài mục đíchtìm cách xô đuổi vị kia đi nơi khác. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

32. Như có tỳ-kheo ni nào muốn nhận sự cúng dường thuốc men của thí chủ để dùng trong vòng 4 tháng, dù không bệnh cũng được nhận. Nếu nhận quá mức trên, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp có người phát tâm cúng dường thường xuyên, hoặc hết hạn bốn tháng rồi nhận cúng dường lần khác, hoặc thí chủ mang đến chùa phân chia cúng dường cho ni chúng, hoặc thí chủ phát tâm cúng dường suốt đời.

33. Như có tỳ-kheo ni nào đến xem những chỗ quân trận, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợpnhân duyên thích hợp.

34. Như có tỳ-kheo ni nào có nhân duyên phải đến chỗ quân trận, có thể ở lại hai hoặc ba đêm. Nếu quá, phạm vào tội ba-dật-đề.

35. Như có tỳ-kheo ni nào, có nhân duyên phải đến chỗ quân trận, phải ở lại đó từ hai đến ba đêm, lại đi xem quân lính tập dượt, dàn trận, đánh nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

36. Như có tỳ-kheo ni nào uống rượu, phạm vào tội ba-dật-đề.

37. Như có tỳ-kheo ni nào bơi lội đùa nghịch trong nước, phạm tội ba-dật-đề.

38. Như tỳ-kheo ni dùng ngón tay mà chọc lẫn vào người nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

39. Như có tỳ-kheo ni nào không nghe lời can ngăn của người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

40. Như có tỳ-kheo ni nào làm cho tỳ-kheo ni khác lo lắng, sợ sệt, phạm vào tội ba-dật-đề.

41. Như có tỳ-kheo ni nào trong nửa tháng tắm quá một lần, phạm tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như khi trời nóng nực, khi thân thể có bệnh, khi phải làm việc nhiều, khi mưa gió, khi đi đường xa.

42. Như có tỳ-kheo ni nào không có bệnh nhưng vì muốn hơ ấm, ở chỗ đất trống đốt lửa, hoặc sai khiến người khác đốt, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợpnhân duyên thích hợp.

43. Như có tỳ-kheo ni nào mang giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của tỳ-kheo ni khác, dù chỉ để đùa chơi, phạm vào tội ba-dật-đề.

44. Như có tỳ-kheo ni nào đã đem y thí cho người khác, về sau không nói với người ấy mà tự ý lấy dùng, phạm vào tội ba-dật-đề.

45. Như có tỳ-kheo ni nào được y mới, phải đem nhuộm cho xấu đi rồi mới dùng. Nếu không nhuộm xấu đi mà mặc vào, phạm tội ba-dật-đề.

46. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý giết chết các loài động vật, phạm vào tội ba-dật-đề.

47. Như có tỳ-kheo ni nào biết là trong nước có trùng mà dùng để uống, phạm vào tội ba-dật-đề.

48. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý tìm cách gây sự phiền muộn, buồn bực cho tỳ-kheo ni khác, khiến chẳng lúc nào được vui vẻ, phạm vào tội ba-dật-đề.

49. Như có tỳ-kheo ni nào biết tỳ-kheo ni khác phạm tội thô mà che giấu, phạm vào tội ba-dật-đề.

50. Như có tỳ-kheo ni nào, biết những chuyện tranh chấp đã theo đúng pháp sám hối trừ diệt rồi, sau lại phát khởi lên, phạm vào tội ba-dật-đề.

51. Như có tỳ-kheo ni nào đã biết là kẻ gian mà cùng đi chung đường, dù chỉ là trong phạm vi một xóm làng, phạm vào tội ba-dật-đề.

52. Như có tỳ-kheo ni nào nói rằng: “Phật có nói là việc dâm dục không ngăn ngại gì cho đạo pháp.” Có tỳ-kheo ni khác can ngăn rằng: “Đại tỷ, chớ nói như thế. Chớ nên hủy báng đức Thế Tôn, như vậy là không tốt. Thế Tôn không hề nói ra lời như vậy. Ngài đã dùng vô số phương tiện để chỉ ra rằng việc dâm dục là ngăn ngại cho đạo pháp.”

can ngăn như thế, tỳ-kheo ni kia vẫn nhất mực không bỏ. Nên khuyên can cho đến ba lần. Nếu đến lần thứ ba mà chịu nghe thì tốt, bằng như vẫn không nghe, phạm vào tội ba-dật-đề.

53. Như có tỳ-kheo ni nào, biết tỳ-kheo ni khác đã nói lời như trên, chưa sám hối theo như pháp, chưa bỏ chỗ tà kiến ấy, mà vẫn cung cấp cho những thứ cần dùng, lại cùng làm phép yết-ma, cùng ngủ nghỉ chung nhau, nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

54. Như tỳ-kheo ni nào, biết sa-di ni nói ra lời này: “Phật có nói việc dâm dục không ngăn ngại gì cho đạo pháp.” Tỳ-kheo ni ấy liền can ngăn rằng: “Ngươi chớ nên hủy báng đức Thế Tôn, như vậy không tốt. Này sa-di ni, đức Thế Tôn không hề nói ra lời như vậy. Ngài đã dùng vô số phương tiện để chỉ ra rằng việc dâm dục là ngăn ngại cho đạo pháp.”

can ngăn như thế, sa-di ni kia vẫn nhất mực không bỏ. Tỳ-kheo ni ấy nên khuyên can, quở trách cho đến ba lần, buộc phải từ bỏ lời sai trái ấy. Nếu đến lần thứ ba mà chịu nghe thì tốt, bằng như vẫn không nghe, tỳ-kheo ni ấy nên nói như thế này: “Ngươi từ nay về sau không được gọi Phật là đức Thế Tôn của ngươi nữa, không được đi theo các tỳ-kheo ni, cũng không được cùng chư tỳ-kheo ni ngủ chung hai đến ba đêm như các sa-di ni khác. Ngươi phải đi khỏi đây, không được ở lại nữa.”

Như có tỳ-kheo ni nào biết sa-di ni đã bị đuổi đi như vậy mà còn mang về nuôi dưỡng, cùng sa-di ni ấy ngủ nghỉ chung nhau, nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề. 

55. Như tỳ-kheo ni nào làm điều sai trái, có tỳ-kheo ni khác theo đúng pháp can ngăn, liền đáp rằng: “Nay tôi không học giới này. Phải đợi chất vấn các vị tỳ-kheo ni khác có trí tuệ, giữ giới.” Tỳ-kheo ni ấy phạm vào tội ba-dật-đề. Như nếu thật sự vì muốn hiểu, muốn học, thì có thể chất vấn.

56. Như có tỳ-kheo ni nào, vào lúc thuyết giới nói rằng: “Đại tỷ, cần chi phải nói những giới vụn vặt ấy, chỉ làm cho người ta phải buồn phiền, hổ thẹn mà thôi.” Như vậy là nghi ngờ, khinh chê giới luật, phạm vào tội ba-dật-đề.

57. Như có tỳ-kheo ni nào, vào lúc thuyết giới nói rằng: “Tôi đến hôm nay mới biết trong giới pháp có điều này, từ trong Giới kinh rút ra, nửa tháng tụng đọc một lần.” Nhưng các tỳ-kheo ni khác thật biết rằng tỳ-kheo ni ấy ít nhất cũng đã hai hoặc ba lần ngồi nghe thuyết giới, huống là rất nhiều lần.

Tỳ-kheo ni ấy không phải là không biết giới. Như đã phạm tội gì thì cứ theo đúng pháp mà trị. Ngoài ra, phải ghép thêm tội không biết nữa, bảo cho biết rằng: “Đại tỷ, cô thật không được sự ích lợi, không có chỗ khéo được. Khi thuyết giới cô đã không chú tâm vào, không một lòng lắng tai nghe pháp.” Vì không biết như thế, phạm vào tội ba-dật-đề.

58. Như có tỳ-kheo ni nào cùng ni chúng dự phép yết-ma rồi, sau lại nói rằng: “Các tỳ-kheo ni vì chỗ thân thiết mà lấy vật của ni chúng đem cho người kia.” Như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

59. Như có tỳ-kheo ni nào, khi ni chúng bàn việc chưa xong, tự ý bỏ đi không nói là mình thuận theo ý chung, phạm vào tội ba-dật-đề.

60. Như có tỳ-kheo ni nào, đã nói là mình thuận theo ý chung, nhưng về sau lại có ý hối tiếc, phạm vào tội ba-dật-đề.

61. Như có tỳ-kheo ni nào, biết các tỳ-kheo ni khác đang bất hòa nhau, nghe chuyện bên này đến nói với bên kia, phạm vào tội ba-dật-đề.

62. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận không vui mà đánh tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

63. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận không vui mà dùng tay vả, tát tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

64. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận mà vô cớ vu cáo tỳ-kheo ni khác là phạm tội tăng-già bà-thi-sa, phạm vào tội ba-dật-đề.

65. Như có tỳ-kheo ni nào đi vào chốn cung môn lúc vua chưa ra triều, chưa kịp cất giấu của báu, bước qua ngạch cửa phạm vào tội ba-dật-đề.

66. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay cầm nắm các món đồ quý hoặc trang sức giá trị, hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác cầm giữ, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp trong khuôn viên chùa hoặc nơi mình đang tạm nghỉ.

Nếu trong khuôn viên chùa hoặc nơi đang tạm nghỉ, tỳ-kheo ni có tự tay cầm nắm các món đồ quý hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác cầm giữ, nên suy nghĩ như thế này: “Nếu chủ nhân biết mà đến sẽ giao cho.” Thật chỉ vậy chứ không có ý gì khác.

67. Như có tỳ-kheo ni nào đi vào thôn xóm trái giờ mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

68. Như có tỳ-kheo ni nào làm giường nằm cao quá tám lóng tay của Phật, không tính từ chỗ vào mộng trở lên, làm xong phạm vào tội ba-dật-đề.

69. Như có tỳ-kheo ni nào dùng loại bông mềm nhuyễn để dồn trải lên giường, nệm nằm, nệm ngồi, phạm vào tội ba-dật-đề.

70. Như có tỳ-kheo ni nào ăn các loại gia vị hành, tỏi, phạm vào tội ba-dật-đề.

71. Như có tỳ-kheo ni nào cạo bỏ ba chỗ lông trên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

72. Như có tỳ-kheo ni nào, dùng nước rửa bên trong âm hộ, có thể dùng hai ngón tay để đưa vào chừng một lóng tay mà làm sạch. Như sâu hơn một lóng tay, phạm vào tội ba-dật-đề.

73. Như có tỳ-kheo ni nào, dùng chất dẻo tạo thành hình dạng giống như nam căn để đưa vào trong âm hộ, phạm vào tội ba-dật-đề.

74. Như có hai tỳ-kheo ni cùng vỗ về, mơn trớn nữ căn cho nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

75. Như có tỳ-kheo ni nào, đến giờ ăn mang nước uống cho thầy tỳ-kheo không có bệnh, lại dùng quạt đứng trước mặt mà quạt, phạm vào tội ba-dật-đề.

76. Như có tỳ-kheo ni nào, đi khất thực nhận các thứ ngũ cốc chưa nấu chín, phạm vào tội ba-dật-đề.

77. Như có tỳ-kheo ni nào, đại tiểu tiện lên trên cỏ xanh, phạm vào tội ba-dật-đề.

78. Như có tỳ-kheo ni nào, lúc ban đêm đại tiểu tiện trong vật chứa, đến sáng mang đổ không đúng chỗ, phạm vào tội ba-dật-đề.

79. Như có tỳ-kheo ni nào, đi xem các trò ca múa, hát nhạc, phạm vào tội ba-dật-đề.

80. Như có tỳ-kheo ni nào, khi vào trong thôn xóm, cùng với nam giới đứng chung nơi chỗ khuất vắng nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

81. Như có tỳ-kheo ni nào, cùng với nam giới đi vào chỗ khuất vắng, phạm vào tội ba-dật-đề.

82. Như có tỳ-kheo ni nào, khi vào trong thôn xóm đến chỗ ngõ hẻm, kiếm cớ bảo người cùng đi tránh ra nơi khác, rồi một mình cùng với nam giới ở chỗ khuất vắng đứng nói chuyện thì thầm qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

83. Như có tỳ-kheo ni nào vào ngồi trong nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà lặng lẽ bỏ đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

84. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà tự đến ngồi trên giường ghế, phạm vào tội ba-dật-đề.

85. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà tự dọn chỗ ngủ nghỉ, phạm vào tội ba-dật-đề.

86. Như có tỳ-kheo ni cùng với một người nam đi vào trong nhà tối tăm không đèn, phạm vào tội ba-dật-đề.

87. Như có tỳ-kheo ni nào, nghe không rõ, không suy nghĩ kỹ mà đi nói lại với người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

88. Như có tỳ-kheo ni nào, chỉ vì một chuyện nhỏ mà dùng lời thề thốt với người khác rằng: “Như ta có làm chuyện ấy, sẽ đọa vào ba đường ác, chẳng gặp được Phật pháp. Như người có làm chuyện ấy, cũng sẽ đọa vào ba đường ác, chẳng gặp được Phật pháp.” Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

89. Như có tỳ-kheo ni nào cùng người khác tranh cãi chuyện không tốt, không khéo nhớ giữ các pháp tránh sự, đấm ngực kêu la to tiếng. Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

90. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người khác nằm chung trên một giường, trừ khi do có bệnh, phạm vào tội ba-dật-đề.

91. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người khác cùng nằm chung một tấm nệm, đắp chung một tấm mền, trừ trường hợp đặc biệt, phạm vào tội ba-dật-đề.

92. Như có tỳ-kheo ni nào, biết người ở trước, mình liền từ sau đến; biết người ở sau đến, liền đứng ngăn ở trước, cố ý muốn làm cho người phải phiền lòng, bực dọc, đứng trước mặttụng kinh, hỏi nghĩa, dạy bảo, phạm vào tội ba-dật-đề.

93. Như có tỳ-kheo ni nào cùng sống chung với tỳ-kheo ni bị bệnh mà không chăm sóc, phạm vào tội ba-dật-đề.

94. Như có tỳ-kheo ni nào, vào đầu mùa an cư đồng ý cho tỳ-kheo ni khác đặt giường ngủ trong phòng, sau đó vì có chuyện giận tức liền xô đuổi ra khỏi phòng, phạm vào tội ba-dật-đề.

95. Như có tỳ-kheo ni nào trong cả ba mùa xuân, hạ và đông đi khắp nơi trong dân gian, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ trường hợpnhân duyên gì khác.

96. Như có tỳ-kheo ni nào, thọ thỉnh sự cúng dường trong ba tháng an cư của cư sĩ, khi hết mùa an cư mà chẳng chịu rời đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

97. Như có tỳ-kheo ni nào, đi du hành trong chốn nhân gian, nơi vùng biên giới đáng ngờ là có nhiều nguy hiểm, phạm vào tội ba-dật-đề.

98. Như có tỳ-kheo ni nào, ở những vùng nghi ngờ có sự nguy hiểm đáng sợ trong xứ mà du hành trong nhân gian, phạm vào tội ba-dật-đề.

99. Như có tỳ-kheo ni nào, thân cận với cư sĩ hoặc con cái của cư sĩ, cùng ở chung một chỗ làm những việc nghịch. Các tỳ-kheo ni khác can ngăn rằng: “Đại tỷ không nên thân cận với cư sĩ hoặc con cái của cư sĩ, cùng ở chung một chỗ làm những việc nghịch. Đại tỷ nên sống riêng biệt, có như vậy mới được thêm chỗ lợi lạc, an ổn trong Phật pháp.

Các tỳ-kheo ni can ngăn như vậy, nhưng tỳ-kheo ni kia vẫn kiên trì không từ bỏ. Nên can ngăn cho đến ba lần. Như chịu bỏ thì tốt, nếu không bỏ, phạm vào tội ba-dật-đề.

100. Như có tỳ-kheo ni nào đến xem những chốn đền đài, cung điện có chạm trổ, trang sức, những nơi vườn tược, ao hồ của vua chúa... phạm vào tội ba-dật-đề.

101. Như có tỳ-kheo ni nào, lõa hình tắm dưới nước sông, nước suối, nước kinh rạch, nước ao hồ, nước đang chảy... không có gì che đậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

102. Như có tỳ-kheo ni nào may áo để che khi tắm, nên may vừa đủ rộng. Bề dài sáu gang tay Phật, bề ngang hai gang rưỡi. Nếu như rộng hơn, phạm vào tội ba-dật-đề.

103. Như có tỳ-kheo ni nào may y tăng-già-lê kéo dài quá năm ngày, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ trường hợp chờ xin cho đủ vải, khi xả y công đức, hoặc khi có những trở ngại khó khăn.

104. Như có tỳ-kheo ni nào, quá năm ngày không nhìn đến y tăng-già-lê, phạm vào tội ba-dật-đề.

105. Như có tỳ-kheo ni nào ngăn cản thí chủ cúng dường y cho chúng tăng, phạm vào tội ba-dật-đề.

106. Như có tỳ-kheo ni nào, không hỏi trước mà lấy y của một vị khác dùng, phạm vào tội ba-dật-đề.

107. Như có tỳ-kheo ni nào lấy y của sa-môn mà thí cho người cư sĩ, người ngoại đạo, phạm vào tội ba-dật-đề.

108. Như có tỳ-kheo ni nào nghĩ rằng, chúng tăng theo đúng pháp phân chia y, liền muốn trì hoãn lại, vì sợ đệ tử mình không nhận được y, phạm vào tội ba-dật-đề.

109. Như có tỳ-kheo ni nào có ý nghĩ muốn làm cho chúng tăng không xả được y ca-hy-na, để về sau sẽ xả, vì muốn kéo dài năm sự buông thả. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

110. Như có tỳ-kheo ni nào có ý nghĩ muốn ngăn chúng tỳ-kheo ni không cho xả y ca-hy-na, vì muốn kéo dài năm sự buông thả. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

111. Như tỳ-kheo ni nào, có tỳ-kheo ni khác đến nói rằng: “Xin vì chúng tôi trừ bỏ đi sự tranh cãi này.” Được yêu cầu như vậy nhưng không cố gắng giúp trừ diệt sự tranh cãi, phạm vào tội ba-dật-đề.

112. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay đưa thức ăn thí cho người cư sĩ hoặc ngoại đạo, phạm vào tội ba-dật-đề.

113. Như có tỳ-kheo ni nào làm người đưa tin hoặc thay mặt cho cư sĩ, phạm vào tội ba-dật-đề.

114. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay kéo sợi, quay tơ, phạm vào tội ba-dật-đề.

115. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, lên ngồi hoặc nằm trên giường ghế của họ, phạm vào tội ba-dật-đề.

116. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, bảo chủ nhân dọn chỗ cho ngủ qua đêm, đến sáng chẳng từ biệt chủ mà bỏ đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

117. Như có tỳ-kheo ni nào đọc tụng, làm theo những chú thuật của thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

118. Như có tỳ-kheo ni nào dạy người khác đọc tụng, làm theo những chú thuật của thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

119. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ đang mang thai mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

120. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ đang cho con bú mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

121. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ chưa đủ hai mươi tuổi mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

122. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, không dạy cho học giới hai năm, đến tròn hai mươi tuổi liền cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

123. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, dạy cho học giới hai năm, nhưng không cho thọ sáu pháp, đợi tròn hai mươi tuổi liền cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

124. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, dạy cho học giới hai năm, đã cho thọ sáu pháp, đến tròn hai mươi tuổi, chúng tăng không thuận mà vẫn cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

125. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tuổi đã từng có chồng, phải dạy cho học giới hai năm, đủ mười hai tuổi có thể cho thọ cụ túc giới. Như chưa đủ mười hai tuổi cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

126. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tuổi đã từng có chồng, đã dạy cho học giới hai năm, đủ mười hai tuổi, nhưng không bạch với chúng tăng mà cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

127. Như có tỳ-kheo ni nào biết người dâm nữ mà nhận cho xuất gia thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

128. Như có tỳ-kheo ni nào độ cho nhiều đệ tử xuất gia thọ cụ túc giới, nhưng không dạy cho học giới hai năm, cũng không dùng hai pháp nhiếp thủ để dạy dỗ, phạm vào tội ba-dật-đề.

129. Như có tỳ-kheo ni nào xuất gia thọ giới cụ túc mà không theo vị hòa thượng ni ít nhất là hai năm, phạm vào tội ba-dật-đề.

130. Như có tỳ-kheo ni nào, chúng tăng không thuận cho mà vẫn truyền giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

131. Như có tỳ-kheo ni nào, xuất gia chưa đủ mười hai tuổi hạ mà trao giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

132. Như có tỳ-kheo ni nào, xuất gia đủ mười hai tuổi hạ, nhưng chúng tăng không thuận cho mà vẫn truyền giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

133. Như có tỳ-kheo ni nào, chúng tăng không thuận cho truyền giới cụ túc, liền nói rằng: “Chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si, như muốn cho ai thọ giới thì tùy tiện mà cho.” Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

134. Như có tỳ-kheo ni nào, truyền giới cụ túc cho người mà cha, mẹ hoặc chồng không cho phép xuất gia, phạm vào tội ba-dật-đề.

135. Như có tỳ-kheo ni nào, biết người nữ đang có chuyện yêu đương, buồn khổ, hờn giận với nam giới, lại nhận cho xuất gia thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

136. Như có tỳ-kheo ni nào nói với thức-xoa-ma-na ni rằng: “Cô nên bỏ điều này, học điều này... ta sẽ truyền giới cụ túc cho cô.” Như không tạo phương tiện để truyền giới cụ túc cho người ấy, phạm vào tội ba-dật-đề.

137. Như có tỳ-kheo ni nào nói với thức-xoa-ma-na ni rằng: “Cô mang y trao cho ta, ta sẽ truyền giới cụ túc cho cô.” Như không tạo phương tiện để truyền giới cụ túc cho người ấy, phạm vào tội ba-dật-đề.

138. Như có tỳ-kheo ni, chưa quá một năm mà đã truyền giới cụ túc cho hai người, phạm vào tội ba-dật-đề.

139. Như có tỳ-kheo ni, nhận truyền giới cho người khác rồi, để qua ngày hôm sau mới đưa đến chỗ tỳ-kheo tăng để thọ giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

140. Như có tỳ-kheo ni, không có bệnh mà không đến nghe tăng giáo thọ, phạm vào tội ba-dật-đề.

141. Tỳ-kheo ni nửa tháng một lần phải đến chỗ chúng tỳ-kheo tăng thỉnh cầu giáo thọ. Như không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

142. Tỳ-kheo ni, sau ba tháng an cư phải đến chỗ chúng tỳ-kheo tăng để trình bày ba việc: những điều đã thấy, những điều đã nghe và những điều còn nghi. Như không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

143. Như có tỳ-kheo ni nào an cư ở nơi không có chúng tỳ-kheo tăng, phạm vào tội ba-dật-đề.

144. Như có tỳ-kheo ni nào, biết là chỗ tự viện của chư tỳ-kheo tăng, không tác bạch mà tự tiện vào, phạm vào tội ba-dật-đề.

145. Như có tỳ-kheo ni nào nhục mạ tỳ-kheo, phạm vào tội ba-dật-đề.

146. Như có tỳ-kheo ni nào, tánh ưa chuyện tranh chấp không tốt, không khéo nhớ giữ các pháp tránh sự, rồi sau giận dữ không vui, nhục mạ chúng tỳ-kheo ni, phạm vào tội ba-dật-đề.

147. Như có tỳ-kheo ni, thân thể có những ghẻ độc hoặc thương tổn cần mổ xẻ, nhưng không thưa với chúng tỳ-kheo ni hoặc nói cho người khác biết trước khi để y sĩ là nam giới mổ xẻ trị thương cho mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

148. Như có tỳ-kheo ni, đã nhận thỉnh thọ thực rồi, hoặc đã ăn no rồi, sau lại còn ăn thêm các món khác nữa, phạm vào tội ba-dật-đề.

149. Như có tỳ-kheo ni nào sanh lòng ganh tỵ không muốn thí chủ cúng dường tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

150. Như có tỳ-kheo ni, dùng các thứ hương phấn bôi xức lên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

151. Như có tỳ-kheo ni, dùng xác dầu mè bôi xức lên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

152. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến tỳ-kheo ni khác xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

153. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến thức-xoa-ma-na ni xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

154. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến sa-di ni xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

155. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến phụ nữ thế tục xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

156. Như có tỳ-kheo ni mặc váy lót, phạm vào tội ba-dật-đề.

157. Như có tỳ-kheo ni cất chứa những thứ đồ trang sức của phụ nữ thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

158. Như có tỳ-kheo ni mang dép da và cầm dù che mà đi, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

159. Như có tỳ-kheo ni, không có bệnh mà đi xe, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

160. Như có tỳ-kheo ni đi vào chỗ thôn xóm mà không mặc y tăng-kỳ-chi, phạm vào tội ba-dật-đề.

161. Như có tỳ-kheo ni, trước đó không có sự mời thỉnh, khi trời chiều gần tối đi đến nhà người thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

162. Như có tỳ-kheo ni, khi trời chiều gần tối mở cổng chùa đi ra mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

163. Như có tỳ-kheo ni, khi mặt trời đã lặn, mở cổng chùa đi ra mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

164. Như có tỳ-kheo ni trước sau đều không dự ba tháng an cư, phạm vào tội ba-dật-đề.

165. Như có tỳ-kheo ni biết người nữ mang bệnh, các đường đại tiểu tiện thường rỉ chảy, lại sanh nhiều đờm dãi ô uế, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

166. Như có tỳ-kheo ni biết người thuộc hạng chẳng phải nam chẳng phải nữ, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

167. Như có tỳ-kheo ni biết người dị tật hai đường đại tiểu tiện nhập làm một, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

168. Như có tỳ-kheo ni biết người nữ mang bệnh nan y hoặc đang mắc nợ chưa trả hết, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

169. Như có tỳ-kheo ni học lấy các môn kỹ thuật của thế tục để lấy đó làm kế sinh nhai, phạm vào tội ba-dật-đề.

170. Như có tỳ-kheo ni dạy các môn kỹ thuật của thế tục cho hàng cư sĩ, phạm vào tội ba-dật-đề.

171. Như có tỳ-kheo ni bị chúng tăng trục xuất mà không chịu đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

172. Như có tỳ-kheo ni thưa hỏi nghĩa lý với tỳ-kheo tăng mà không xin phép trước, phạm vào tội ba-dật-đề.

173. Như có tỳ-kheo ni biết người ở trước mình, liền từ sau đến, biết người ở sau đến, liền đứng ngăn ở trước, cố ý muốn làm cho người phải phiền lòng, bực dọc, ở trước mặtkinh hành, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm. Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

174. Như có tỳ-kheo ni biết là có tỳ-kheo tăng trong chốn tự viện mà xây tháp ở đó, phạm vào tội ba-dật-đề.

175. Như có tỳ-kheo ni gặp vị tỳ-kheo tăng mới thọ giới, phải lập tức đứng dậy nghinh đón, cung kính lễ bái, thăm hỏi, mời ngồi. Nếu không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi có nhân duyên.

176. Như có tỳ-kheo ni vì muốn làm đẹp mà uốn éo thân hình trong khi đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

177. Như có tỳ-kheo ni dùng các món trang sức, hương phấn của phụ nữ trên thân mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

178. Như có tỳ-kheo ni sai khiến phụ nữ ngoại đạo dùng các món hương thơm thoa lên thân cho mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

_ Kính bạch chư đại tỷ. Tôi đã thuyết xong một trăm bảy mươi tám pháp ba-dật-đề, xin hỏi chư đại tỷ, trong ni chúng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại tỷ, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong ni chúng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15912)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18784)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14348)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14299)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13453)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13443)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11723)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13159)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13838)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13154)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14918)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16321)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11778)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17474)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13587)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12789)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14777)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16251)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12661)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12790)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14032)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14024)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12293)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14290)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10935)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13800)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13067)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12905)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13412)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10127)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13819)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11874)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12580)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10892)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11807)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10982)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant