Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11882)
Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận


Thiên Thứ VI: Tu Đạo Luận

CHƯƠNG I

ĐỘNG CƠ TU ĐẠO VỚI TU ĐẠO PHÁP NHẤT BAN

1- ĐỘNG CƠ TU HÀNH VỚI KHỔ QUAN.

Trở lên là tiếp theo tâm lý luận để trình bày một cách đại yếu về luận lý quan của A-tỳ-đạt-ma. Song, những điểm được trình bày trong chương cuối cùng thứ tư, cứ theo A-tỳ-đạt-ma, thì luân lý chủ yếu là thuộc phạm vi luân hồi, tuy có phân biệt thiện nghiệp sinh thiện thú, ác nghiệp sinh ác thú, nhưng tất cả chỉ là biến dị hữu lậu. Cho dù thiện nghiệp được luôn luôn kế tục nhưng phần kết quả thu lượm được vẫn dao động chứ không thể là cứu kính an định. Vả lại, hữu tình thường lấy ngã dục làm trung tâm, cho nên, có khi vì không biết, có khi vì tham dục, sân huệ mà ác nghiệp; và trường hợp đó xảy ra rất thường, bởi vậy mà kết quả thụ hưởng ra sao cũng có thể thấy rõ rồi. Như vậy, nhận thấy tầm mắt thấy xa thì tất cả mọi sự trong thế gian này đều không an định, nói một cách tóm tắt, tất cả đều là khổ. Cái chứng cứ lớn nhất của Khổ quan là: vì cũng là một hiện tượng thiên nhiên nên, con người, mật mặt tuy phải phục tòng định luật tất nhiên của vận mệnh, nhưng, mặt khác, vì cũng là một sự tồn tại tinh thần nên lại có yêu cầu tự do vô hạn. Đó là sự mâu thuẩn bất tương dung và vì phải sống trong thế giằng co ấy mà con người cảm thấy đau khổ: điều này tôi đã thường trình bày qua. Đức Phật cho tất cả đều là khổ, cái lý do chính cũng ở đó. Song, cái cảm thống khổ đau ấy cũng lại là động cơ thúc đẩy con người tìm đến sự giải thoát trong tôn giáo. Đức Phật chủ trương đời là bể khổ chính là vì cái thực tướng này của thế gian. Do đó, chủ trương này, về sau đã trở thành một đặc trưng về nhân sinh quan Phật giáo thông cả Tiểu thừaĐại thừa. Nhưng làm thế nào để giải thoát khỏi khổ? Cũng như các vấn đề khác trong Phật giáo, vấn đề này một khi được đặt ra thì cũng lại có nhiều nghị luận bất đồng. đạo Đại thừa Bồ tát chẳng hạn, xác lập lý tưởng vĩnh viễn, lấy tất cả hoạt động tự phát mà định giá trị của lý tưởng đó, do vậy khổ cũng được coi như thứ hồi hướng tới đại lý tưởng ấy. Trong Tiểu thừa Phật giáo con đường giải thoát khổ có tính cách tiêu cực, trên thực tế, làm cách nào để có thể đạt đến thế giới hết khổ đau? Đây chính là vấn đề chủ yếu. Như ai nấy đều biết, A-tỳ-đạt-ma y theo giải thích bình diện, ở nhiều trường hợp, nói rõ nguyên nhân của thế giới khổ đau chính là đã phê phán giá trị của thế giới vậy. Đời là khổ, và chính đó là động cơ tu đạo. A-tỳ-đạt-ma đã thuyết minh khổ như thế nào? Trong các kinh có nhiều cách thuyết minh về khổ, và để thích ứng, A-tỳ-đạt-ma đối với khổ, cũng có nhiều thuyết minh. Nhưng nếu nói một cách tóm tắt thì cái phương pháp xử lý phổ thông là đem định nghĩa khổ chia ra làm nhiều loại. Chiếu theo Khế kinh thì định bình của khổ có tám, đó là sống khổ, già khổ, chết khổ, cầu thương khổ, lo buồn khổ, oán ghét mà gặp gỡ là khổ, yêu thương mà chia lìa là khổ, tất cả sự cầu mong không thỏa mãn là khổ (Vism, p. 498). Lại nói một cách đơn giản là: tất cả vô thường là khổ, tất cả khổ là vô ngã, “biết các hành vô thường, đều là pháp biến dị, bởi thế nói thụ tất cả khổ, đó là điều người chính giác đã biết rõ” (Tạp-a-hàm quyển 17, Đại chính, 2, trang 121, cột trên). Vì vô thường nên khổ, khổ vì vô ngã. A-tỳ-đạt-ma tuy thuyết minh nhiều về những nỗi khổ đó, nhưng dần dần đã đem thống nhất và, cuối cùng, còn muốn tập hợp lại nữa. Về định nghĩa của khổ, Phật Âm nói:

Khổ tướng là sự buồn bực liên miên và là hình của sự buồn bực liên miên đó (Vism, p. 640).

Lại có bốn trạng thái: 1- Trạng thái buồn bực, 2- Trạng thái vô thường (hành), 3- Trạng thái thiêu đốt, 4- Trạng thái biến hoại (ibid p. 494). Trạng thái một và trạng thái ba là bản thân của khổ đau, còn trạng thái hai và trạng thái bốn, đại khái trong nhất thời không là khổ đau nhưng cuối cùng lại quy về khổ. Về pía Bắc truyền thông lệ chia khổ thành ba loại[1], tức là khổ lhổ, hành khổhoại khổ (Câu xá, quyển 22). Khổ khổ là tự thân của khổ; hành khổ là sự vô thường, bất an nên khổ; hoại khổ là vì những khoái lạc hiện tại cuối cùng cũng có lúc tiêu tan nên khổ (có thể so sánh với ba khổ của Số luậny nội khổ, y ngoại khổ, y hành khổ - Sáu Phái Triết Học Ấn Độ trang 7). Tựu trung, hai loại sau này là đặc trưng của nhân sinh Phật giáo, tức cuộc sống của con người, dù là hữu lậu, về mặt cảm giác, cho dù không thấy khổ, nhưng vì vô thường biến hoại, thiếu mất tính bất biến thường hằng, cho nên, về điểm này, có thể nói tất cả ở thế gian đều là khổ.

Từ nhân sinh quan đó, vấn đề tất nhiên phải được đặt ra là: làm thế nào để có thể đạt đến cảnh giới triệt để giải thoátrốt ráo yên ổn? Đây là đề mục tối cao của Phật giáo. Tập hợp và hiển bày một cách đơn giản khóa để này là Bốn Đế: khổ, tập, diệt, đạo. Cội nguồn thống khổ của kiếp người lấy bất tuyệt dục làm cơ sở, vì y vào phiền não, bởi thế, muốn hết khổ phải diệt phiền não thì phải tu đạo: đó là căn cứ của Tu đạo luận.

2- NHỮNG ĐỨC MỤC TU ĐẠO.

Nhưng cái đạo diệt phiền não ấy là gì? Nói theo Tứ đế luận thì phổ thôngBát chính đạo, tuy đưa ra tám đức mục, nhưng dần tiến đến A-tỳ-đạt-ma thì một mặt nói Bát chính đạo, mặt khác, trên Bát chính đạo, như Tứ niệm xứ, Bát chính đoạn, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, lại đưa ra cái gọi là bảy khoa ba mươi bảy đạo phẩm làm thông lệ. Ngoài Bát chính, sáu khoa kia, về ý nghĩa, đứng ngang hang với Bát chính, nếu nói một cách thực tế, thì bảy khoa là những đức mục chỉ khác nhau về lập trường chứ không phải bất đồng về tính chất. Kỳ thực, những đức mục tu đạo trong Khế kinh không hạn định trong bảy khoa, mà ngoài ra còn có mười niệm, mười tưởng, bốn thiền, bốn vô lượng, bốn vô sắc v.v… do đó không thể đưa ra con số nhất định được. Do những đức mục đó không phải bất đồng trên tính chất, nên yêu cầu giải thoát không nhất định phải tu theo tất cả pháp môn. Cứ theo Phật giáo nguyên thủy thì tuy chuyên tu một pháp môn nào đó, nhưng vì thời cơtình thế có khác, nên, theo ý nghĩa “tùy bệnh cho thuốc”, đức Phật đã chỉ bày nhiều phương thức. Như đã trình bày ở trên, đặt chất của bộ phái Phật giáo là, thay vì lấy thế gian pháp làm chủ, lại đặt ra trong tâm cái gọi là xuất thế gian pháp (giải thoát pháp) và, để thích ứng đức mục tu đạo là đối tượng là các A-tỳ-đạt-ma luận sư đã tận lực luận cứu, chỉnh lý và phân loại. Nhất là A-tỳ-đạt-ma ở thời kỳ, như tôi đã trình bày trước, chuyên lấy việc giải thích các đức mục tu hành làm đề mục chủ yếu. Thế rồi, đến A-tỳ-đạt-ma tiến bộ, ngoài Tu đạo luận ra, đối với việc thuyết minh thế giới sự thực, tuy có tăng gia nhiều, nhưng cái phương pháp của Tu đạo luận dần dần đã trở nên tinh tế, và nhiếp thủ toàn bộ các đức mục phối hợp chúng với quá trình tiến triển trong việc tu đạo, để muốn chỉnh lý chúng theo thuận tự: đó là một đặc trưng lớn của thời kỳ tiến bộ này. Bởi thế, trong các kinh, luận cổ, những đức mục được coi là trọng yếu cũng chỉ được thuyết minh một cách giản dị, đơn thuần; trái lại, trong các kinh, luận mới,tuy được chỉnh lý nhiều, nhưng thuyết minh về tu đạo, so với thời đại Phật giáo nguyên thủy, phức tạp hơn nhiều, và, nói theo một ý nghĩa nào đó, đã xa rời thực tế: đây là một sự thật hiển nhiên. Để thích ứng với tín ngưỡng, ở thời đại Phật giáo nguyên thủy, quả A-la-hán không phải khó khăn để đạt được, nhưng một khi đã được A-tỳ-đạt-ma chỉnh lý thì nó biến thành quả vị tối cao, người thường khó mà đạt được. Do sự tiến bộ về học vấn mà Tiểu thừa Phật giáo thật đã mất hẳn cái hương vị tôn giáo. Nếu nhận xét điều này về phương diện thần học, thì các phiền não, đạo diệt phiền não, và những cảnh giới nhờ đó mà đạt được, tất cả Tiểu thừa đều muốn chỉnh lý cho có trật tự hẳn hoi: đây là điểm rất lý thú mà ta không thể bỏ qua.

3- TƯ CÁCH TU ĐẠO.

Về Tu đạo luận vẫn còn đề mục nữa không thể không bàn đến, đó là người ta phải có tư cách như thế nào để thích ứng với việc tu đạo? Về luân lý đạo đức được trình bày trong thiên trước thì người ta, bất luận ai cũng đều nên theo, nhưng về tu đạo, nếu nói theo nghĩa hẹp, thì so với luân lý, phạm vi của nó còn hẹp hơn, và tính chất của nó không thích dụng. Điều này, chiếu theo các giáo phái Bà-la-môn thì người tua đạo thích hợp đại khái chỉ hạn cục trong ba giai cấp trên mà thôi (tham chiếu kinh Phệ Đàn Đa, mục nói về tư cách; trong phái Số luận, tuy lấy ba giai cấp trên làm chủ, nhưng cũng có khi chấp nhận cả giai cấp thứ tư). Nhưng Phật giáo chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh, vì đặc chất ấy cho nên đến Phật giáo Bộ phái, đối với bốn giai cấp, tự nhiên đã không đặt ra mật hạn chế nào cả. Về nam nữ tính thì Phật giáo nguyên thủy đã thừa nhận có sự tu đạo thích hợp cho cả nam nữ, và cũng có khả năng tính đạt được giải thoát, mà trên thực tế, nữ tính đắc quả cũng không phải ít. Bởi thế, đến Phật giáo Bộ phái đối với vấn đề này cũng không có dấu hiệu đã đặt ra hạn chế hay sự khu biệt đặt biệt nào. Duy có vấn đề là sự khu biệt giữa tại giaxuất gia; tức muốn tu đạo phải xuất gia hay ở tại gia cũng có thể? Vấn đề này, chiếu theo Phật giáo nguyên thủy, đức Phật bảo là tuy ở tại gia nhưng nếu tâm nay thẳng, dốc lòng tu đạo thì tại gia cũng có thể tới giải thoát, nhất là Ưu bà tắc, Ưu bà di, trong bốn quả, đức Phật nhận là có thể đạt được quả thứ ba, điều này tôi đã trình bày qua rồi (Nguyên Thủy Phật Giáo Tư tưởng Luận). Song, sự tu dưỡng triệt để, muốn được giải thoát thật sự ngay trong hiện tại, thì công năng xuất gia lớn hơn công năng tại gia, đây cũng là một sự thật rõ rệt (như trong Trung a hàm quyển 31, Lại-tra-hòa-la-kinh, và Trung a hàm quyển 8, sa-kê-đế-tam-tộc-tính kinh v.v…). Nhưng thuyết này, đến Phật giáo Bộ phái thừa kế như thế nào? Nói một cách đại thể thì đến Phật giáo Bộ phái, thuyết này tuy cũng giống nhau, nhưng về phương diện tinh thần thì có điểm rất bất đồng. Phật giáo nguyên thủy tuy tưởng lệ xuất gia, nhưng cũng rất chú trọng đến sinh hoạt luân lý tại gia, đến Phật giáo Bộ phái thì, cứ theo A-tỳ-đạt-ma lại coi thường phương diện luân lý tại gia mà chuyên đề cao pháp tu dưỡng xuất gia và kết quả, đó là sự thật không thể chối cãi (Thành-thật-luận 17, Ác giác phẩm 182, bảo hành giả ngoài việc không được khởi dục niệm, tâm sân khuể và tâm não hại, còn đưa ra thân lý giác (tâm lo cho nước), quốc độ giác (tâm muốn đi du lịch các nơi), bất tử giác, lợi tha tâm và khinh tha tâm v.v… Tựu trung, bất tử giác, là trước hết đọc tụng năm tạng là tam tạng, tạp tạngBồ tát tạng rồi mớinghiên cứu ngoại điển, nuôi dưỡng đệ tửgiáo hóa chúng nhân, tu đạo dần dần như thế. Đây là sự ngộ nhận về trước, sau). Nền thần học của A-tỳ-đạt-ma thật vô cùng phiền tỏa, nhận xuất gia là do nhà chuyên môn mà phát đạt. Tóm lại, theo ý nghĩa ấy, người chính đầy đủ tư cách tu dưỡng là người xuất gia, tại gia nhờ tôn kính cúng dàng xuất gia mà được tham dự phần phúc đức, đó là tư cách phổ thông, còn người tại gia nào dốc lòng tu dưỡng theo đạo xuất gia thì điều đó không ai cấm. Do đó, song song với sự hưng thịnh của Phật giáo Tiểu thừa, sự xuất gia cũng phát đạt rất nhiều, đến đây người ta không lấy làm lạ tại sao có nhiều người xuất gia. Ở thời đại đức Phật, vì Phật giáo hưng thịnh nên có đủ loại động cơ xuất gia, bởi thế đức Phật đã phải phân biệt thành nhiều thứ. Như trong Trường-a-hàm quyển 3, Du hành kinh, trong phần Phật dạy Chân Na, có nói đến bốn loại xuất gia: 1- Hành đạo thù thắng, 2- Thiện quyết đạo nghĩa, 3- Y đạo sinh hoạt, 4- Vị đạo tác uế (Đại chính, 1, trang 18, trung)[2]. Tựu trung, hành đạo thù thắng nghĩa là đạo hạnh hơn người; thiện quyết đạo nghĩa, là đối với giáo nghĩa của Phật giáo có tài tuyên thuyết khéo léo, y đạo sinh hoạt là đạo hạnh tuy không thù thắng, thuyết pháp tuy không khéo léo, nhưng dù sao vẫn giữ được nếp sống người xuất gia; còn vị đạo tác uế là những Tỷ khưu phá giới[3]. Lại Thập tụng luật quyển 1 (Đại chính, 23, trang 2, thượng), cũng đưa ra bốn loại Tỷ khưu: 1- Danh tự Tỷ khưu, 2- Tự ngôn Tỷ khưu, 3- Vị khất Tỷ khưu, 4- Phá phiền não Tỷ khưu (Câu xá, quyển 15 trích dụng). Tựu trung, Danh tự Tỷ khưu nghĩa là tuy xưng danh là Tỷ khưu nhưng thật ra là thế tục; Tự ngộn Tỷ khưu nghĩa là người tự xưng là Tỷ khưu; Vị khất Tỷ khưu, chiếu theo nghĩa đen là người ăn xin, tức những người hành khất; Phá phiền não Tỷ khưu là những người Tỷ khưu chân chính. Tỷ khưu của Phật giáo phải là hạng thứ tư này: chính sự phân loại trên đã bao hàm ý nghĩa ấy. Ở thời đại Phật giáo nguyên thủy, về mặt đạo hạnh, đã cần phải có sự khu biệt như thế rồi, bởi thế, đến thời đại Phật giáo Bộ phái vốn chủ nghĩa hóa và hình thức hóa đạo xuất gia, thì dĩ nhiên,trên thự tế đã chia ra nhiều loại Tỷ khưu. Do đó, A-tỳ-đạt-ma luận thư lấy đó làm một trong nhiều vấn đề cũng là lẽ tự nhiên vậy. Như các nhân phẩm được nói đến trong các A-tỳ-đạt-ma luận thư (chẳng hạn, Nhân phẩm trong Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, quyển 7), tuy chưa hẳn chỉ là những người xuất gia, nhưng dù sao cũng lấy trình độ tu hành của những người xuất gia làm trung tâm mà phân loại căn cơ hay tính chất của họ để hiển bày tiến trình đưa đến địa vị cao tột.

Như vậy, đến thời đại Phật giáo Bộ phái, ít ra là trên hình thức, đã trở thành chủ nghĩa xuất gia, mà những người xuất gia đó, bất luận trên sự thực hay trên lý luận đều phân loại thành nhiều căn cơ, và đối với cái phương thức tu dưỡng, một mặt thừa nhận, không nhiều thì ít, có sự bất đồng, mặt khác lại muốn nhất ban hóa, thống chế hóa những đức mục tu dưỡng, cho nên Tu đạo luận đã nghiễm nhiên trở thành cực phức tạp và chi ly. Tuy nhiên, nếu phân loại một cách đơn giản thì những đức mục đó rốt cục không ngoài tam học giới, định, tuệ, bởi thế, nói một cách giản dị thì sự tu dưỡng của Tỷ khưu không ngoài ý nghĩa tu tam học: đây là phương châm căn bảnnhất quán từ Phật giáo nguyên thủyPhật giáo bộ phái. Do đó, trong thiên thứ sáu này, tuy đã lấy những đức mục đã được biểu thị ở trên làm bối cảnh, nhưng ở đây chỉ lấy đề mục tam học để nói rõ phương pháp tu dưỡng một cách đại thể, rồi từ đây, tiến lên bước nữa tôi tưởng lại phải bàn qua về quá trình đắc quả.


[1] Xuất xứ đầu tiên của 3 khổ thấy trong Trường Hàn, Chúng Tập Kinh, xem Đại Chánh, 1 trang 50, trung.

[2] Ngoài ra, trong kinh Phật Ban Nê Hoàn còn nói có bốn loại Tỷ khưu: 1- Nghèo cùng không tự nuôi thân được, 2- Mắc nợ mà không trả nổi, 3- Vô dụng đối với xã hội, 4- Cao sĩ sống thanh khiết, khi nghe Phật pháp thì bổng nhiên tâm ngộ xuất gia (Đại chính, 1, trang 172, trung).

[3] Bà sa, quyển 66, giải thích rằng: Thắng đạo là Phật và Độc giác; Thị đạoXá Lợi Phất; Mệnh đạo là A Nan; Ô đạo tuy chỉ cho Mạt Hát Lạt Ca có vết như ăn trộm, nhưng cũng còn chỉ cho những Tỷ khưu đặc thù hóa khác (Câu xá, quyển 15)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15665)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10974)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53442)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12872)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16389)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15260)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19053)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19813)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15419)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15238)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20182)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23723)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12948)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19846)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13171)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28927)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11602)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18182)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16523)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13126)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12688)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13121)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12879)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12765)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12898)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13436)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11586)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14138)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17642)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22273)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13344)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14192)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105552)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14498)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38295)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15416)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34543)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15946)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11265)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15564)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13902)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13569)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12394)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19287)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26883)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13049)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13368)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21474)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17857)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21754)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15965)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18970)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24592)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant