Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12990)
Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ


Chương II: Nguyên Tắc Tu Đạo Với Giới Định Tuệ

1- QUAN HỆ GIỮA TU ĐẠOTAM HỌC.

Về đức mục tu đạo, tuy có nhiều, nhưng chủ yếu thì không ngoài Tam học giới, định, tuệ. Từ đây, tôi tưởng nên trình bày qua về Tam học (nhưng, về giới, đặc biệt về luật, đã nói trong thiên trước rồi, nên ở đây không đề cập đến nữa). Trước hết hãy nhận xét về tổng thể của Tam học. Sự quan hệ giữa nguyên tắc căn bản của Tu đạo luận như thế nào? Tôi tưởng phải thuyết minh cái quan hệ tất nhiên bất ly giữa Tu đạoTam học. Tam học của Phật giáo không phải chỉ là chia làm ba để tiện cho phương pháp tu dưỡng, nhưng trong đó giáo lý căn bản và tổ chức nhân sinh có sự liên quan mật thiết.

Theo Phật giáo, sự sinh hoạt của chúng ta lấy dục làm cơ sở để thành lập, ngã chấp, ngã dục là nền tảng của sự sinh tồn. Như đã nói nhiều lần, trong cái căn bản của ngã chấp, ngã dục ấy có yêu cầu sinh mệnh vô hạn mà, như đã trình bày qua, tuy được gọi là tâm tính bản tịnh, nhưng về phương diện một hiện tượng thì sự sinh hoạt của chúng ta do vô minhái dục chi phối; đó là quan điểm nhất ban của Phật giáo. Như trước đã nói, người ta có nghiệp tập từ vô thủy, tự nhiên phải theo hạn định dự trước, người ta tuy sống nhưng được quy định bởi tính tích hay cảnh ngộ mà trong đó đặc trưng của sinh mệnh không thể không phát hiện hoạt động tự phát được. Cái lý do tại sao Phật giáo cho thế giới này là khổ là do sự sợ hãi tự nhiên về khổ khổ, hoại khổhành khổ như trên kia đã nói, tuy ở lực chi phối nhưng trong đó đã mang đầy đủ nghiệp tập tự nhiên ràng buộc mất tự do (đại khái được gọi là hành khổ), phương pháp để giải thoát khỏi sự ràng buộc tự nhiên từ cả bên trong lẫn cả bên ngoài ấy mà đạt đến tự do chân chính, ta không thể tìm kiếm ở bên ngoài mà phải tâm cầu bên trong, nếu nói một cách đơn giản thì đó là sự cải tạo tinh thần của ta, đây không những là con đường giải thoát duy nhất; mà là con đường tắt tất nhiên: có thể nói, đó là chú ý nhất quán của Phật giáo. Theo Phật giáo thì sức ép thiên nhiên có thể được cải tạo, nhưng phải rất từ từ chứ không gấp rút được. Trái lại, tâm người ta, trên thực tế, thật vô cùng khó khăn nếu không có một ý chí kiên quyếtcố gắng không ngừng thì không thể nào cải tạo được nó một cách triệt để. Đây chính là lý do tại sao Phật giáo, nhận xét về phương diện giá trị, chủ trương thế giới là sản phẩm của tâm, bất luận mê hay ngộ, tất cả đều do nơi tâm. Về điểm này, xin trích mấy câu kinh văn để chứng minh:

Xe do các nghiệp mà khởi, tâm thức quay với xe, theo nhân mà chuyển đến, hễ nhân hoại thì sẽ diệt – Tạp-a-hàm, Kinh 49 (Đại chính, 2, trang 356, cột dưới).

Tâm mang thế gian đi, tân dẫn thế gian đến, chỉ có tâm là thể chế ngự được thế gian – Tạp-a-hàm, Kinh 36 (Đại chính, 2, trang 264, thượng).

Tâm là căn bản, tâm sai tâm khiến, trong tâm nghĩ ác thì tức làm ác, tội khổ đuổi theo cũng như bánh xe quay theo trục xe. Tâm là căn bản, tâm sai tâm khiến, trong tâm nghĩ thiện thì tức tâm thiện, hạnh phúc đi theo cũng như bóng theo hình – Xá-lợi-phất-a-tỳ-đàm luận, quyển 15 (Đại chính, 28, trang 628, trung).

2- TUỆ HỌC.

Đến đây, vấn đề được nêu lên là: làm thế nào để cải tạo tâm một cách triệt để? Ở đây, phát sinh tác dụngtam học Giới, Định, Tuệ.

Để cải tạo tâm, trước hết không thể không biết rõ sự thự hiện tại. Nói một cách khác, đồng thời với cảm giác thống khổ mất tự do, phải thức tỉnh tinh thần mong cầu lý tưởng vĩnh viễn bất động. Phật giáo nói đến như thực tri kiếnbát nhã rốt ráo không ngoài ý nghĩa đó. Phật giáo sở dĩ được coi là một tôn giáo trọng trí tuệ nhất trong các tôn giáo là vì Phật giáo lấy sự tự giác chân chính làm trọng yếu. Bởi thế, mà trí tuệ kể là một trong Tam học. Song, có điều quan trọng là chúng ta đừng lầm lẫn trí tuệ ở đây với trí thức do học vấn. Phật giáo, đặc biệt đến A-tỳ-đạt-ma, như đã trình bày ở trên, tuy rất giàu thuyết minh tri thức học vấn, nhưng đó thật ra chỉ là phương tiện để đạt đến trí chứ không có một nhiệm vụ tất nhiên nào cả. Trí tuệ của Phật giáo có nghĩa là trí phán đoán cuộc đờivô giá trị, đầu đau khổ, và tin chắc chắn vào giá trị của giải thoát Niết bàn: đó là điều chúng ta cần ghi nhận (về sau, kinh Bát nhã lấy không làm đối tượng của trí tuệ chính cũng từ đây mà ra). Theo ý nghĩa ấy, Phật giáo trên đại thể, có thể nói bao hàm khuynh hướng chủ trí chủ nghĩahợp lý chủ nghĩa. Nhưng, nếu cho Phật giáochủ nghĩa hợp lý, và chủ nghĩa chủ trí thì lại là một sai lầm lớn, bởi lẽ, trong trí tuệ của Phật giáo còn bao hàm cả phán đoán tình ý, cho nên, trọng trí tuệ mà không bỏ qua tình tình ý.

3- BA TUỆ VĂN, TƯ, TU.

Song, làm thế nào để nuôi thành trí tuệ đó? Theo Phật giáo, trí tuệ có nhiều giai đoạn, phải dần dần và theo thứ tự mà tiến sâu vào. đầu tiên phát tâm cũng do trí tuệcuối cùng được giải thoát cũng lại do trí tuệ. Về điểm này tôi xin nói sau, ở đây, hiện đang bàn về vấn đề tu dưỡng, và trên đại cương, có thể chia tuệ làm ba giai đoạn, tức là ba tuệ văn, tư, tu. Trong luận Thành Thật, quyển 16, phẩm Tam tuệ 194, lấy nó làm một đề mục độc lập để luân cứu; trong Câu xá, quyển 22, thì nó làm phương tiện để vào kiến đạo. Đương nhiên, đây chưa hẳn đã là cách phân loại đặc hữu của Phật giáo. Trong kinh Du Già (Yogasutra I, 48), cũng nói “Do thánh giáo lượng, tỷ lượng và nhiệt liệt tu tập thiền định, do ba thứ đó mà hành giả được trí tuệ, được vô thượng Du già”. Cứ theo chú giải của Vi Da Xá thì câu đó vì là truyền thuyết được dẫn dụng cho nên được thừa nhậnphương pháp đạt đến trí tuệ cần thiết cho tất cả hạng người tu hành, nhưng trong Phật giáo, sự phân loại này, ít ra cũng có một ý nghĩa rất trọng yếu.

Tựu trung, cái gọi là văn tuệ, như Thành-thật-luận nói, chỉ là cho trí tuệ phát sinh các Tu Đa La. Nếu nói một cách đơn giản thì đó là trí tuệ do nghe mà hiểu được nghĩa lý của điều mình nghe mà có. Trong tất cả trí tuệ, đây tuy là nông cạn nhất, nhưng, về phương diện tu dưỡng nhập môn trong Phật giáo, sự xuất hiện của nó được coi là rất trọng yếu. Vì văn tuệ ở đây không phải hàm ý tất cả học vấn thuộc về tai, nhưng tất phải là văn tuệ của Phật giáo. Theo ý nghĩa ấy, Thành-thật-luận trích lời trong kinh nói: “nghe các kinh điển của Vi Đà của thế tục vì không thể sinh trí tuệ vô lậu nên không thể gọi là văn tuệ” (Tam tuệ phẩm 194). Đệ tử của Phật được xưng là Thanh văn rốt cục cũng không ngoài ý nghĩa đó. Bởi vậy, ta có thể giải thích văn tuệ trong Phật giáo đã bao hàm ý thức tín ngưỡng Tam bảo, tức niềm tin vững chắc cho rằng duy chỉ có Phật, Pháp, Tăng là điểm tựa chân chính cho việc cầu giải thoát. Do đó, nếu đứng về phương diện tiêu cực mà nói, ngoài Phật giáo ra, tất cả kinh điển, chế đagiáo pháp khác, trên căn bản, không có sức cải tạo con người. Trên thực tế, so với các nơi Đại thừa Phật giáo thịnh hành, tại những xứ mà Thanh văn thừa (Tiểu thừa) được truyền bá, người ta thấy rất ít yếu tố khác xâm nhập Phật giáo, và nền Phật giáo tại các nơi đó được bảo trì một cách thuần tịnh, có thể nói, cũng nhờ ở ý thức tín ngưỡng trên. Đối với ý nghĩagiá trị của văn tuệ, chúng ta cần phải đặc biệt chú ý. Tóm lại, nếu muốn từ Phật giáo để rút ra một sự phán đoán chính xác về đời người, thì điều kiện tiên quyết là phải hiểu rõ nghĩa lý trong các giáo phái được ghi chép trong kinh điển hay trực tiếp nghe Phật dạy.

Nghe chính pháp mà hiểu một cách chính xác và nếu chỉ ghi nhớ trong đầu óc không thôi thì rốt cục nó cũng chỉ là tri thức, không giúp ích cho tâm linh con người. Muốn cải tâm tất phải sinh hoạt hóa chính pháp, tức là phải sống theo chính pháp. Mà cái phương pháp sinh hoạt hóa chính pháp được đưa ra là hai loại tu tuệ và tư tuệ tiếp sau văn tuệ. Tư tuệ có nghĩa là nghiền ngẫm những điều mình đã được nghe để xác định nghĩa lý của nó. Bà sa, quyển 42 (Đại chính, 27, trang 217, trung), nói: văn tuệ chủ yếu là nơi câu văn, tư tuệ tuy cũng do văn nhưng lại đặt nặng ở nghĩa (tham chiếu Câu xá, quyển 22). Lại tiến lên bước nữa, bỏ văn theo nghĩa mà sự quy định sinh hoạt nội tâm của người ta là tu tuệ, mà trên phương diện pháp tướng của A-tỳ-đạt-ma, chủ yếu là do thiền định mới có thể đạt được. Đến tu tuệ thì trí tuệ mới triệt để đến tâm linh, bởi thế, cái cực trí của tu tuệ là tâm giải thoát[1] (nghĩa là thoát dục), tuệ giải thoát (nghĩa là thoát vô minh), cuối cùng trở thành đại tự giác tận trívô sinh trí.

4- ĐỊNH HỌC.

Muốn đưa tu tuệ tiếp tục tiến lên, thì không phải chỉ dựa vào sự hoạt động cân não hay tác dụng quan niệm là đủ, mà thật ra, phải đợi đến năng lực thiền địnhthực hành mới có thể tiến lên được. Trong việc sinh hoạt hóa tư tưởng, mà tư tưởng lại phải do hành vi để tiến tới cụ thể hóa. Như vậy là ở đây, cuối cùng phải có công phu dung hóa tư tưởngcông phu làm cho hành vi đi đến cụ thể hóa. Cái phương pháp dung hòa tư tưởngthiền định, còn quy định hành quy để đi đến cụ thể hóagiới luật. Tựu trung, thiền định như sẽ trình bày sau, về phương diện tiêu cực thâm cảm sự tồn tạivô giá trị, ức chế ngã chấp, ngã dục; còn về phương diện tích cực thì lấy sự tự do giải phóng sinh hoạt tinh thần làm tổ chức. Theo đồ thức ấy, một mặt ức chế cảm giác, mặt khác nhờ sức tập trung tinh thần để cải tạo sự sinh hoạt của người ta. Có thể nói, phương pháp này là căn bản trong tất cả phương pháphành đạo của Phật giáo và thông cả Đại, Tiểu thừa, không miột giáo lý nào trong Phật giáo được thành lập ngoài thiền. Nhất là Tiểu thừa giáo, vì xấy dựng trên cái gọi là tự lực chủ nghĩa, nên, nếu rời xa thiền thì tất cả chỉ còn một lý luân suông. Theo ý nghĩa ấy, tôi cho rằng, nếu rời xa thiền thì không có tuệ là tất nhiên, nhưng đồng thời cũng không có giới nữa.

5- GIỚI HỌC.

Như vậy thì giới hạnh chẳng qua chỉ là sản phẩm phụ thuộc của thiền thôi sao? Không phải thế. Vì đứng ở một phương diện mà nói, nếu xa lìa tuệ và thiền thì giới hạnh chỉ là hình thức, nhưng đứng ở phương diện khác mà nói, nếu không thực hành giới hạnh thì tuệ và thiền không thể được hoàn thành; đồng thời nhờ thực hành giới hạnh mà tuệ và thiền mới trở nên thuần chân, bởi thế, giới hạnh quyết không thể được coi nhẹ hơn tuệ và thiền. Không những thế, nếu khảo sát xa hơn chút nữa, thì tuệ và thiền không khỏi có tính cách cá nhân, còn giới hạnh, bất luận theo ý nghĩa nào đều có tính xã hội, vì mỗi cử động của người giữ giớiảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, về quan hệ, ít ra là về mặt thực tế, nói theo một ý nghĩa nào đó, giới hạnh, so với thiền, tuệ, có ý nghĩa rất trọng yếu, đây là điểm chúng ta cần ghi nhận. Cái lý do tại sao Phật giáo đồ nguyên thủy tuy coi coi trọng thiền, tuệ, nhưng cũng nhiệt liệt thảo luận về giới luật chính là ở đó. Theo ý nghĩa ấy thì tuệ và thiền cần phải có giới mới được hoàn thành, nếu xa rời giới hạnh thì thiền và tuệ không thể coi là hoàn toàn.

6- SỰ QUAN HỆ HỖ TƯƠNG GIỮA TAM HỌC.

Tam học giới, định, tuệ, về mặt biểu diện, tuy thuộc những phạm trù khác nhau, nhưng về phương diện căn bản cải tạo sự sinh hoạt của người ta, thì chúng có quan hệ rất mật thiết, hay có thể nói, là quan hệ nhân duyên mà các bậc cổ đức thường ví như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một chân không đứng được. Tức là, muốn hoàn thành tuệ tất phải dự tưởng thiền và giới hạnh; cũng thế, muốn cho giới được hoàn thành tuệ tất phải dự tưởng thiền và tuệ, nếu không, sẽ chẳng thể nào đạt đến giải thoát hoàn toàn. Đây không phải chỉ là chủ trương của Phật giáo chính thống mà ngay đến Phật giáo bộ phái cũng không có gì thay đổi. Đương nhiên, cứ theo văn tựnhận xét Tam học thì đó là phương châm lý tưởng để tu đạo, thể hiện tam vị nhất thể, nhưng, trên thực tế, từ thời đại Phật giáo nguyên thủy đã do ý kiến nhiều người mà có ít nhiều điểm bất đồng. Cũng vì thế mà đã sản sinh ra khuynh hướng các nhà chuyên môn (như Tu Bồ Đề[2] chuyên ở trong núi. Ưu Ba Li là nhà chuyên về luật, và A Nan thì chuyên về thiền định v.v…). Nhất là thời đại bộ phái[3] thì khuynh hướng ấy lại càng rõ rệt, rồi đến Trung Quốc, Nhật Bản thì cuối cùng đã chia thành Luật tôn, Thiền tôn, Học vấn tôn (Giáo tôn) v.v… tuy có lập ra phái, nhưng đến Phật giáo bộ phái thì, tóm lại, lấy Tam học làm nhất thể mà hướng tời tu đạo, đó là nghĩa căn bản mà ta không thể bỏ qua.


[1] Về ý nghĩa tâm giải thoáttrí tuệ giải thoát, có thể tham chiếu Visuddhimagga, “Dùng định để ngăn phiền não nên gọi là tâm giảithoát” (Thành-thật-luận, quyển 44, thiện giác phẩm 182).

[2] Tăng nhất a hàm,quyển 2 (Đại chính, 2, trang 557) – A. I,p. 24 – 26, có đưa ra cả Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, Tín nam, Tín nữ.

[3] theo Bộ chấp dị luận thì như Khôi sơn trụ bộ (Kê dân bộ, Ngưu gia bộ) lấy luật làm phương tiện, nghiên hẳn về thiền, đó là một thí dụ. Lại nữa, về giá trị tu đạo của giới, định, tuệ thì trong visuddhimagga Chapt, I, p. nói: “Do giới mà vượt ác thú, do định mà siêu Dục giới, do tuệ mà vượt “Tam giới”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188637)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43780)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25028)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30800)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21018)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38735)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27358)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31081)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33093)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23952)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16963)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20494)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31893)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18078)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20534)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27006)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18037)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25542)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26624)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36561)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28040)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27273)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30317)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37080)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37229)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23858)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32270)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55112)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36889)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27554)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28291)
Công Phu Khuya
(Xem: 37931)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25387)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24123)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11219)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14487)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10613)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant