Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

51. Hóa thân làm rắn độc

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10003)
51. Hóa thân làm rắn độc

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ SÁU: CHƯ THIÊN CÚNG DƯỜNG

HÓA THÂN LÀM RẮN ĐỘC

Lúc ấy, Phật ở gần thành Vương-xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Trong thành có một người trưởng giả tên là Hiền Diện, giàu có vô cùng. Người này tánh tình gian hiểm, tham lam, keo kiệt, chưa từng làm việc bố thí giúp người, thậm chí cho đến các loài chim thú cũng xô đuổi chẳng cho đến gần nhà. Mỗi khi có các vị tỳ-kheo đến nhà khất thực, đều dùng lời độc ác, thóa mạ mà xô đuổi. Người ấy chỉ lo việc tích lũy của cải mà làm giàu, chẳng tu hạnh bố thí.

Đến khi mạng chung, trưởng giả ấy phải sinh làm thân rắn độc, lại quay về nhà mà canh giữ gia sản. Mỗi khi có ai đến gần đều giận dữ rượt đuổi. Rắn ấy độc hiểm đến nỗi chỉ trừng mắt nhìn cũng đủ làm người bỏ mạng.

Vua Tần-bà-sa-la nghe chuyện rắn độc sinh trong nhà trưởng giả Hiền Diện, đã hại mạng rất nhiều người, trong lòng lo sợ lắm, suy nghĩ rằng: “Con rắn ấy độc hiểm như vậy, nếu không trừ tất còn làm hại nhiều người hơn nữa. Nhưng nó hung dữ đến thế, làm sao trừ được. Nay chắc rằng chỉ có đức Thế Tôn mới điều phục được nó mà thôi.”

Vua liền cùng với quần thần đi đến chỗ Phật, lễ bái cúng dường rồi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay trong thành có một con rắn độc sinh vào nhà trưởng giả Hiền Diện, hại mạng đã nhiều người. Kính mong Như Lai từ bi thu phục nó mà cứu nạn cho bá tánh.” Phật yên lặng nhận lời.

Hôm sau, đức Thế Tôn đắp y, mang bát đi vào thành, thẳng đến chỗ rắn độc đang ở. Rắn thấy Phật đến thì ngóc cao đầu, phùng mang phóng đến, ý muốn hại Phật. Phật liền dùng tâm từ bi mà đưa năm ngón tay chỉ vào rắn độc, tức thời phóng ra năm đạo hào quang năm sắc, chiếu khắp thân hình rắn độc. Khi ấy, tâm sân hận, ác độc của rắn độc bỗng nhiên tiêu tan, tự thấy khoan khoái dễ chịu, không còn có ý muốn hại người nữa.

Khi ấy Phật biết rắn độc đã được điều phục, liền nói lớn rằng: “Ngươi vốn trước kia là trưởng giả Hiền Diện, do tâm tham lam, sân hận mà nay phải thọ quả báo sinh làm rắn độc, thân thể xấu xí, tánh tình độc ác. Nay sao ngươi không biết tự hối lỗi xưa, lại còn tạo thêm nghiệp ác, dùng nọc độc mà hại người, càng thêm tệ ác. Cứ như vậy thì trong tương lai không thể tránh được phải nhận lãnh khổ não cùng cực.”

Rắn độc được nghe lời Phật, ác chướng tiêu trừ, tự nhiên nhớ biết được kiếp trước của mình, do tâm tham lam tạo các ác nghiệp nên nay nhận chịu khổ báo làm thân rắn độc. Nhớ biết được như vậy rồi liền sinh lòng tin tưởng sâu vững nơi Phật pháp.

Phật lại bảo rắn độc rằng: “Ngươi ngày trước làm người, vì chẳng tin theo lời ta nên mới phải rơi vào ác đạo. Ngày nay nên biết hối cải, vâng thuận theo lời dạy của ta.”

Khi ấy, rắn bỗng nhiên thốt được tiếng người, đáp lời Phật rằng: “Xin tùy Phật dạy, con chẳng dám làm sai.”

Phật bảo: “Tâm ngươi nếu đã thuần thục, hãy chui vào bình bát của ta đây.”

Phật vừa dứt lời, rắn liền hóa hình chui vào bình bát của Phật, cùng theo về tinh xá Trúc Lâm.

Bấy giờ, nhân dân khắp thành Vương-xá đều nghe biết việc Phật thu phục rắn độc tự chui vào bình bát, liền lũ lượt kéo nhau đến xem. Do thần lực của Phật, rắn độc nằm trong bát nhìn ra thấy dân chúng kéo đến xem, liền sinh tâm hổ thẹn, trong đêm hôm đó trút bỏ thân rắn, thác sinh lên cõi trời Đao-lỵ.

Khi sinh lên đó rồi, tự nghĩ rằng: “Ta đã tạo phước duyên gì mà được sinh lên cõi trời này?” Nghĩ rồi liền tự quán sát, nhớ lại nhân duyên đọa làm thân rắn độc, nhờ Phật cứu độ nên ác nghiệp tiêu trừ được sinh lên cõi trời.

Vị thiên tử này liền hiện thân trang nghiêm, mang những hương hoa, trân bảo của cõi trời mà đến chỗ Phật, lễ bái, cúng dường rồi chấp tay đứng hầu sang một bên. Phật nhân đó liền thuyết pháp cho nghe, khiến tâm ý được khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn. Thiên tử liền đọc kệ tán thán Phật rằng:

Đức đại thánh cao siêu,
Công đức đều đầy đủ.
Soi sáng người mê tối,
Khiến được đắc quả Phật.

Trừ sạch các phiền não,
Vượt qua biển sinh tử.
Nay nhờ ân đức Phật,
Vĩnh viễn lìa ác đạo.

Vị thiên tử ấy tán thán Phật rồi, liền chí thành lễ bái rồi từ biệt trở về thiên cung.

Sáng hôm sau, vua Tần-bà-sa-la đến chỗ Phật rất sớm, thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Đêm qua có hào quang chiếu sáng nơi tinh xá này, chẳng hay đó là các vị Thích phạm, Chuyển luân thánh vương, hay hai mươi tám bộ quỷ thần đến nghe pháp?”

Phật nói: “Chẳng phải Thích phạm, thiên thần đến nghe pháp. Ấy là trưởng giả Hiền Diện tham lam ngày trước, nay đã được sinh lên cõi trời nên đến cúng dường ta. Do đó mà có ánh hào quang ấy.”

Phật thuyết nhân duyên trưởng giả Hiền Diện xong, chư tỳ-kheo trong chúng hội liền lìa bỏ lòng tham lam, sân hận, lánh sợ đường sinh tử, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22058)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15908)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14929)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18781)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14343)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18496)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13450)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11718)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13151)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16064)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10986)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16313)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11773)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17468)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12792)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13581)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12786)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14775)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16243)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13025)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11998)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12656)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12689)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14026)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14010)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16354)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12289)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14287)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11176)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10928)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13119)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13795)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13062)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13406)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12600)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10122)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13813)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10136)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13594)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16159)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11868)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12871)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11556)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10697)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10887)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12656)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10978)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12516)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11230)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant