Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương III: Thiền Định Luận

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12148)
Chương III: Thiền Định Luận


Chương III: Thiền Định Luận

1- GỢI ĐỀ.

Yếu lĩnh của sự tu đạo tuy là giới, định, tuệ quân bình, nhưng trong đó, như đã nói ở trên, điểm có ý nghĩa trọng yếu hơn cả là thiền định. Nếu đứng ở một phương diệnnhận xét thì giới, định, tuệ tuy là quan hệ chân vạc, nhưng nhận xétphương diện khác thì chúng lại là quan hệ giai đoạn hỗ tương. Giới chủ yếu là chuẩn bị để được tuệ. điều này cứ xem trong Thanh Tịnh Đạo luận nói do giới mà vượt ác thú, do định mà thoát khỏi Dục giới và do tuệ mà siêu tam giới thì đủ rõ (Vism, p..). Tựu trung, định không những chỉ ở giữa mà còn khoáng trương cả hai bên, tức là tuệ siêu việt tam giới, ý nghĩa định phát tuệ thật ra cũng không ngoài sức định. Bởi vậy, ta có thể nói, trung tâm tu đạo là định. Phật giáo không lập nên một đấng Thần linh mà trước sau vẫn chỉ lấy tâm làm trung, và cái khế cơ điểm vể tôn giáo trong Phật giáo chủ yếu là ở sự tu dưỡng thiền định, đó là điểm chúng ta cần ghi nhận. Song, sự tu dưỡng thiền định này, theo một ý nghĩa nào đó, không những chỉ riêng cho Đại thừa, Tiểu thừa mà bất luận học phái nào đều lấy định làm căn để cho sự tu dưỡng, có thể nói, nêu xa lìa thiền định thì Phật giáo không còn là Phật giáo nữa. Bởi thế, chuyên lấy ẩn tuẫn làm ý chỉ, do tâm thanh tịnh vắng lặngđược giải thoát, sự tu đạo từ Nguyên thủy Phật giáo đến Tiểu thừa Phật giáo đều lấy thiền định làm nền tảng cho tất cả sự tu đạo: điều này, tưởng cũng không có gì là lạ cả. Nếu bảo cái thật thể của các tôn giáo hữu thần là ở như sự cấu đảo, thì ta có thể nói thật thể của Phật giáo là ở như thiền.

2- THIỀN QUÁN VỚI TỨ ĐẾ VÀ 12 NHÂN DUYÊN.

Trưng theo giáo lý, như đã thường lập đi lập lại ở trên, Phật giáo nói nhiều giáo tướng, như nhân sinh quan, thế giới quan, thực tiễn quan v.v… tuy triển khai dần dần, nhưng chỗ quy kết thì có thể nói tất cả đều phát xuất từ thiền. Vì thế mà trong các thực tiễn quan, thiền có một ý nghĩa trong yếu nhất. Đương nhiên, mới nhìn qua thì thay vì nói là Thiền quán lại nhận là phương thức thuyết minh sự thực và lý tưởng mà thiền chính là căn để của phương thức đó: đây là điểm ta không thể bỏ qua, Như Tứ đế, 12 Nhân duyên, Tứ niệm xứ lấy đó làm hình thức thuyết minh. Tứ đế thuyết minh nhân quả giải thoátluân hồi; 12 nhân duyên cho thấy do thuận quan mà luân hồi, do nghịch quan mà giải thoát; còn Tứ niệm xứ đối với sự tồn tại của người ta mà phám đoán theo hai phương diện sự thực và giá trị. Song, đây không phải là sự phán đoán lý luận, mà là sự phán đoán thiền quán, không những thế, bất luận là Tứ đế, 12 nhân duyên hay Tứ niệm xứ, khi tu hành thiền quán thì tất cả đều là một loại công án. Thêm vào đó sự phân loại Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, nếu nhận xét theo tinh thần đó thì, nhưng đã nói nhiều lần, chẳng qua cũng chỉ để thích ứng với thái độ tinh thần tu thiền mà thôi. Lại nữa, Phật giáo hay nói đến những tổ chức sinh lýcuối cùng thì cũng không ngoài cái thủ đoạn đem ứng dụng chúng vào thiền quán (như Bất tịnh quán chẳng hạn). Cứ như thế mà tham cứu thì ta thấy giáo lý của Phật giáo dù có thuyết minh bằng thái độ nào đi nữa, nhưng tất cả đều có thể quy kết ở thiền quán, vì, nếu không hiểu được thiền quán thì quyết không thể nắm được cái chân lý của Phật giáo: tôi tưởng đây không phải là lời nói quá đáng. Theo ý nghĩa ấy, sự phát đạt của giáo lý Phật giáo chẳng qua cũng chỉ là sự phát đạt và biến thiên của thiền quán, Rốt cục, do thiền quántrạng thái tinh thần đạt đến nguyên lý hóa, hiện tại hóa, rồi lấy đó làm cơ sở, đem những thuyết minhthực tiễn pháp thành lập tổ chức: đó là sự biến thiên của nền giáo lý Phật giáo. Lại nữa, cũng là Phật giáo nhưng được chia thành nhiều Khế cơ điểm. Nhất là muốn hiểu rõ Phật giáo Đại thừa thì người ta không thể không nhớ kỹ điều này.

3- Ý NGHĨA THIỀN ĐỊNH.

Phật giáo là một tôn giáo lấy thiền làm trung tâm thành lập, có rất nhiếu ký lục về thiền, đồng thời, cũng có nhiều cách để biểu diễn thuật ngữ thiền. Về phương diện tổng luận, tôi tưởng trước hết hãy nói về bản chất của thiền. Nói một cách đại thể, thiền của Phật giáo chẳng có gì sai khác với phương pháp tu dưỡng nhất ban của Ấn Độ thời bấy giờ mà người ta mệnh danh là Du Già, Tam Ma Địa. Không những thế, thiền của Phật giáo chính cũng đã thoát hóa từ những phương pháp tu dưỡng ấy, điều này tôi đã trình bày ở một nơi khác rồi. Do đó, về phương diện bản chất của thiền - mặc dù về phương pháp hay nội dung quan niệm có chỗ bất đồng – cũng chẳng có gì sai biệt với sự tu dưỡng nhất ban Du Già. Chủ yếu, cột tâm vào một chỗ[1], thống nhất các biều tượng, cuối cùng phải đến chỗ vô niệm, vô tưởng: đó là tu định. Theo ý nghĩa ấy thì đặc chất của định rõ ràngtiêu cực chế chỉ sự tán loạn của tâm, Nhưng, mục đích của sự tu định không những chỉ tiêu cực trấn áp tán loạn nội tâm mà còn, đồng thời với sự trấn áp ấy, dồn hết tâm lực vào một điểm, dựa trên sự quan sát triệt để một đối tượng nào đó khiền cho chình mình, cuối cùng, cũng hòa với đồi tượng ấy làm một; đứng về phương diện này thì tu định có mục đích tích cực: đó là điểm chúng ta cần ghi nhận. Có thể nói, mục tiêu tu định là ở điểm này. Thiền có hai phương diện tuy cùng gọi là thiền, là định – phân biệt về nội dung – nhưng trong đó bao hàm nhiều tâm thái, và; để biểu đạt những tâm thái đó, đã sản sinh ra nhiều thuật ngữ, đây là lẽ tự nhiên.

Trưng theo kinh Du Già thì có những thuật ngữ như Du Già, Tam ma địa, Tam ma bát đề, Đà diễn na và Tha lạp na v.v… và ý nghĩa của mỗi thuật ngữ, không nhiều thì ít, có chỗ sai khác. Trong Phật giáo cũng có nhiều thuật ngữ, phổ thông thường nói là bảy tên của định (Du già sư địa luận lược biên, quyển 5, Đại chính, 43, trang 66 trở đi. (Câu xá, quyển 28). Dó là nói vể khởi nguyên, về sau, trong sự hỗ tương, tuy không khu biệt một cách chặt chẽ, nhưng đến A-tỳ-đạt-ma, vốn ưa thích nghiêm cách hóa tất cả tựa hồ đã khu biệt nó môt cách rất chặt chẽ. Sau đây là những danh xưng:

a- Tam-ma-thả-đa (đẳng dẫn) hai định dùng cho cả hữu tâmvô tâm.

b- Tam-ma-địa (Tam muội, đẳng trì): lấy tính tâm nhất cánh làm đặc chất, chỉ dùng cho định hữu tâm.

c- Tam-ma-bát-để (đẳng chí): thông cả hữu tâm, vô tâm thường được xưng tổng quát là Tứ thiền, Tứ vô sắc định.

d- Đà-diễn-na, Thiền na (Tĩnh lự): tuy đặc biệt chỉ dùng cho từ thiền định, nhưng đến Đại thừa nó đã trở thành tên chung cho tất cả thiền định, thiền trong thiền định là chữ ihàna (thiền na) mà ra.

đ- Chất-đa-y-ca-a-yết-la-đa; tâm nhất cảnh tính, chỉ dùng cho hữu tâm định, đại lược đồng nghĩa với Tam-ma-địa.

e- Xa-ma-tha (chỉ): danh từ này được dùng song song với Tỳ-bát-xà-na (quán). Đối với tác dụng tích cực quán tưởng, nó là tác dụng tiêu cực chuyên làm cho tâm chìm lắng xuống. Đây cũng chỉ cho hữu tâm định thôi.

g- Hiện-pháp-lạc-trụ: trong Tứ thiền, đặc biệt là vào trạng thái căn bản định, duy chỉ có Thánh tâm.

Những danh từ trên đây, như vừa nói ở trước, khi được dùng một cách mặc nhiên thì không phân biệt chặt chẽ, nhưng về phương diện A-tỳ-đạt-ma, khi chúng được dùng một cách nghiêm khắc, thì cái phạm vi của bảy danh từ kể trên, nếu nói một cách đại lược, thì đã từ phạm vi rộng nhất dần dần biểu hiện tâm thái đặc thù ở phạm vi hẹp. Song, một danh từ chung đó đại biều cho thiền định của Phật giáo, là Tam-ma-địa. Dứng về phương diện Du Già sử mà nhận xét, trong Áo Nghĩa Thư cổ xưa, danh từ vẫn chưa thấy được biểu hiện, đến thời đại học phái nó mới bắt đầu được dùng làm thuật ngữ. Nhưng, trong Phật giáo, nó được thu dụng ngay từ đầu, bởi thế, khi muốn nói đến thiền định, người ta luôn luôn dùng danh từ này. Nói một cách đơn giản, Chính định trong Bát chính đạo, định Ngũ căn, Ngũ lực, tất cả đều được biểu hiện bằng một danh từ Tam-ma-địa. Danh từ này do tiếng sam + v- dha. Cái gọi là trị tâm nhất xứ (giữ tâm ở một chỗ) tức là ý nghĩa tổng trì hay đẳng trì vậy. Tâm thái biểu hiện thiện định một cách thật thích đáng đại khái đã từ đây để rồi đã đi đến cách dùng rất rộng rãi.

Phật Âm, trong A-tha-sa-lị-noa (pp. 118-9), đã giải thích Tam-ma-địa như sau:

“Làm cho tâm chuyên chú vào một cảnh, đặc tướng của nó là không động loạn, không trạo cử, tác dụng của nó là kết hợp các pháp cùng sinh (tâm, tâm sở) vào một chỗ, cũng như nước rửa, biểu hiện của nó là lấy tĩnh tâm làm phát sinh trí tuệ. Vì có tĩnh tâm mới thấy rõ chân lý, bởi thế, chỉ lấy sự vui làm chỗ lập cước. Tóm lại, khi không có gió thì đèn đứng ngay,tâm được đứng vững là nhờ Tam muội, người ta cần ghi nhớ điều đó” (Rhys Davids; Yogàvacàras Manua of Indian Mysticism as Practicsd by Buddhists London 1896, p. XXVI, trích dụng).

Trên đây, có thể nói, là sự giải thích gần thỏa đáng.

4- KHÓA ĐỀ THIỀN ĐỊNH.

Bản chất của thiền định là như thế, nhưng khi luận cứu về vấn đề này thì nên chia thành mấy bộ môn cho đúng? Muốn thuyết minh điểm này, trước hết phải nói rõ về mục đích tu thiền đã. Nói một cách tóm tắt thì mục đích tối cao của sự tu thiền là ở như sự giải thoát nhưng ngoài mục đích chính đó ra, tu thiền cũng cón có những mục đích phụ nữa mà, nếu muốn luận cứu về thiền, tất cũng phải xem chúng như những khóa đề để khảo sát. A-tỳ-đạt-ma chia mục đích tu thiền thành ba hay bốn loại, nhưng lấy bốn làm thông lệ: Thứ nhất, là đắc hiện pháp lạc trụ; Thứ hai, đắc thắng trí kiến; Thứ ba, đắc phân biệt tuệ; Thứ tư, là tận chư phiền não (lậu tận) (Câu xá, quyển 28; Thành Thật, quyển 12, Từ tu định phẩm 158 cũng giống nhau). Thứ nhất hiện pháp lạc trụ có nghĩa là nhờ tu định mà thân tâm được an tĩnh; thứ hai thắng trí kiến nghĩa là được thần thông; thứ ba phân biệt được tuệ tức là thấy được tính, tướng của các pháp như thế; thứ tư lậu tận đã được giải thoát tối cao. Xem thế thì bốn điểm trên đây là khóa đề của Thiền na và nếu cứ lấy đó mà luận về Thiền quán một cách tổ hợp cũng được, nhưng, thật ra bốn điểm trên chủ yếu là dựa vào công đức tu thiền mà đưa ra số mục, bởi vậy, nếu thuyết minh về cái gọi là thiền mà chỉ có thế thôi thì chưa đủ. Về điểm này, tôi đã nói qua một nơi khác,[2] Nếu muốn luận cứu một cách có căn bản về nhất ban thiền thì những mục sau đây cần phải được lưu ý. Thứ nhất là tâm lý quan; yếu nghĩa của thiền là làm cho tâm chuyên chú vào một cảnh. Nếu xử lý tâm như thế nào? Đó là vấn đề tiên quyết. Trong đề mục Tâm lý luận Phật giáo mà tôi đã trình bày ở trên có một khóa trình nói về Thiền định tâmlý luận chính cũng ở đó. Trước khi bàn về Thiền định tâm lý luận, phải nói qua tâm lý luận nhất ban, đó là một đề mục của Thiền định luận. Thứ hai là lý tưởng luận: làm thế nào để do thiền mà đạt được lý tưởng tối cao? Nội dung của thiền, trên quan hệ quy định, nếu không phải là lý tưởng luận thì thiền không thể được thành lập; thứ ba là phương pháp luận: làm thế nào cho tâm được thống nhất để thực hiện lý tưởng, đó là phương pháp thực tiễn mà, theo một ý nghĩa nào đó, là vấn đề trung tâm của thiền; thứ tư là thần thông và những yếu tố khác: đây là dựa vào công đức của thiền mà nói chứ chưa hẳn đã là mục đích tối cao của thiền. Bất luận trong hiện tại, quá khứ, dựa vào kiện khang pháp, an tĩnh pháp cho đến sức bất khả tư gnhị của thiền, nếu cho đó là một mục đích tu dưỡng của thiền, thì đó phải đặt thành một đề mục khác để luận cứu.Hình thức Thiền định luận được chỉnh lý ít nhất phải có bốn đề mục này, nhưng ở đây, trong Tâm lý luận nhất ban của Phật giáo đã bàn qua rồi. Còn lý tưởng luận nên việc bàn riêng với thiền luận, về thần thông lực cũng là một bộ phận của tuệ, tưởng cũng phải nên luận cứu một cach thích đáng, vậy, rốt cục, chỉ cón lại có phương pháp luận mà thôi. Song, phương pháp luận trong trường hợp Phật giáo, không những là phương pháp bề ngoài mà còn bao hàm ý nghĩa dùng công án với Thiền quán như thế nào cho thích ứng. Bởi thế, theo ý nghĩa ấy, phương pháp luận lại có thể chia thành hai đề mục: một là phương pháp bề ngoài, hai là phương pháp nội dung. Phương pháp trước, khi nhập định, luận về những dụng ý bên ngoài (cũng có hơi đề cập đến nội dung); còn phương pháp thứ hai nên chuyên luận về nội dung của pháp quan. Như vậy, tập hợp tất cả ý nghĩa ấy để lại nói rõ ý nghĩa Cửu thứ đệ định thì phải đề cập đến tất cả nghị luận của A-tỳ-đạt-ma và, như vậy, vấn đề nói ra sẽ cực kỳ phiền tỏa, bởi thế, ở đây, tôi xin kết thúc chương này (Thiền định luận).


[1] Về điểm này, có vài định nghĩa rõ ràng, giản dị nhất: 1- Tâm trụ một chỗ là tướng tam muội Thành Thật, quyển 12, Định nhân phẩm 155), 2- Định có nghĩa là thanh tịnh, có công đức tinh tiếntịch tĩnh thật yên tĩnh, không tán loạn, gọi là định (Giải thoát đạo luận, quyển 2, Phân biệt định phẩm 4, Đại chính, 32, tr. 406, ha), 3- Định nghĩa là khéo ở vào một cảnh (Câu xá, quyển 28).

[2] Xem bài khảo sát về sự triển khai của tư tưởng Phật giáo với Thiền trong mục “Từ Chân không đến Diệu hữu).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33115)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6516)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30424)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12155)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12776)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34704)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9824)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10720)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10489)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10692)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10442)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13049)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16224)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21803)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7098)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12707)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12758)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16203)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16505)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13833)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16552)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12091)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13778)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9176)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11727)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16276)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16183)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12057)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15639)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14008)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11993)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12604)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14971)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13103)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14506)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20652)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10921)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20663)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14325)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20325)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17609)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31840)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11997)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant