Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

99. Hai cậu cháu

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10135)
99. Hai cậu cháu

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ MƯỜI: CÁC NHÂN DUYÊN KHÁC

HAI CẬU CHÁU

Lúc ấy, Phật ở thành Vương-xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Trong thành có một vị Phạm-chí tên là Điệt-sử, sanh được hai con. Một gái tên là Xá-lỵ và một trai tên là Câu-hi-la.

Câu-hi-la thông minh, uyên bác, mỗi khi luận đàm chẳng ai thắng được. Người chị là Xá-lỵ tuy cũng rất mực thông minh, nhưng khi luận đàm với em thì thường đuối lý, chẳng tranh cãi lại.

Đến khi người chị có thai, bỗng nhiên luận giải sắc bén, Câu-hi-la không lần nào thắng được. Ông liền suy nghĩ rằng: “Chị ta trước giờ luận đàm thường không thắng nổi ta. Nay có thai rồi bỗng nhiên lại thay đổi, tất nhiên là do oai đức của đứa bé này. Nay nó còn trong bào thai mà đã như vậy, mai sau khôn lớn ta làm sao thắng nổi?”

Lòng ông đầy kiêu mạn, nghĩ đến sau này phải thua kém đứa cháu ấy thì không chịu được, liền bỏ nhà đi xuống phương Nam, tìm học tất cả kinh luận. Ông phát lời thề rằng: Chưa trở thành vị luận sư giỏi nhất thì chưa cắt móng tay. Bởi vậy, móng tay ông ngày càng dài ra, liền có biệt danh là Trường Trảo.

Người chị ông là Xá-lỵ sau đó sanh ra một người con trai, đặt tên là Xá-lỵ-phất, hình dung đẹp đẽ, lại thông minh trí tuệ hơn người, học tập các bộ kinh luận đều thông đạt, chẳng mấy ai đối đáp lại nổi.

Ngày kia, trong thành Vương-xá tổ chức một hội lớn, quy tụ hết thảy các vị luận sư để cùng tranh luận với nhau. Nơi hội trường rộng lớn thấy kê bốn chỗ ngồi cao rộng, oai nghiêm. Xá-lỵ-phất năm ấy vừa được 8 tuổi, đến chơi nơi đó, thấy vậy liền hỏi người chung quanh rằng: “Bốn chỗ ngồi cao rộng ấy là dành cho ai vậy?” Người chung quanh đáp: “Chỗ thứ nhất dành cho nhà vua, chỗ thứ hai dành cho thái tử, chỗ thứ ba dành cho đại thần, chỗ thứ tư dành cho người lên tranh luận.”

Xá-lỵ-phất nghe xong liền xăm xăm đi đến, leo lên chỗ ngồi dành cho người tranh luận mà ngồi.

Bấy giờ, các vị Phạm-chí cao niên, luận sư kỳ cựu, thảy đều kinh hoảng. Họ lại suy nghĩ rằng: “Nếu chúng ta ra tranh luận, dù có thắng đứa trẻ này cũng chẳng lấy gì là vinh dự. Bằng như thua, thật là nhục nhã chẳng làm sao nói hết.” Nghĩ vậy rồi, chẳng ai muốn lên, liền sai những người bà-la-môn thuộc hàng thấp kém hơn lên tranh biện. Tất cả liền bị Xá-lỵ-phất bẻ gãy lý luận của từng người, chẳng ai thắng nổi. Dần dần mới đến các vị luận sư kỳ cựu, cũng đều thua hết.

Xá-lỵ-phất từ sau lần tranh luận thắng hết các vị luận sư, liền nổi tiếng khắp mười sáu nước lớn. Ngày kia, lên chơi trên lầu cao, nhìn xuống thấy người xe đi lại xôn xao bên dưới, bỗng nảy ra ý nghĩ rằng: “Đến trăm năm nữa, những người đi lại dưới kia rốt cùng rồi cũng chỉ còn là con số không, liệu có ý nghĩa gì?” Nghĩ như vậy rồi, từ trên lầu đi xuống, liền tìm theo các sư ngoại đạotu học.

Khi ấy, đức Thế Tôn vừa mới thành đạo quả, khắp mười sáu nước lớn đều chưa ai hay biết. Như Lai thương tưởng muốn giáo hóa chúng sanh, liền sai tỳ-kheo A-bệ đến thành Vương-xá khất thựchóa đạo. Xá-lỵ-phất nhìn thấy dáng đi oai nghiêm, thanh thản của tỳ-kheo A-bệ, liền cảm nhận được ngay rằng người này đã tìm được một lối sống giải thoát khỏi mọi ràng buộc, nghĩ rằng: “Vị này là ai mà có phong thái ung dung như thế? Ta nên đến chào hỏi xem sao.” Nghĩ rồi liền bước đến hỏi rằng: “Xin hỏi người đã theo học đạo với vị nào? Dạy người những pháp chi mà được ung dung thanh thản như vậy?”

Tỳ-kheo A-bệ đọc kệ đáp rằng:

Các pháp do nhân duyên mà sanh,
Lại cũng do nhân duyên mà diệt.
Thuyết rõ nhân duyên sanh và diệt,
Bậc đại sư soi đường đến giải thoát.

Xá-lỵ-phất nghe kệ, tâm liền khai mở, chứng quả Tu-đà-hoàn.

Khi trở về, người bạn của ông là Mục-kiền-liên thấy vẻ mặt hớn hở khác thường, liền nói rằng: “Tôi với ông trước có lời giao ước: Ai tìm được đạo giải thoát sẽ cùng dẫn đường cho người kia đi. Nay tôi thấy vẻ mặt ông, có thể đoán biết là ông đã tìm được con đường giải thoát rồi. Có đúng vậy chăng?”

Xá-lỵ-phất đáp: “Đúng vậy.” Rồi đọc lại cho Mục-kiền-liên nghe bài kệ của A-bệ ba lần. Mục-kiền-liên nghe xong liền chứng quả Tu-đà-hoàn.

Hai người đều đã chứng đắc đạo quả, liền tụ tập đồ chúng lại, thuật chuyện cho nghe rồi bảo rằng: “Nay chúng ta đều muốn lên đường đến chỗ Phật mà cầu được xuất gia nhập đạo. Ý các ngươi thế nào?” Chúng đệ tử đều xin đi theo.

Xá-lỵ-phất với Mục-kiền-liên liền dẫn theo 250 người đệ tử, cùng đi theo tỳ-kheo A-bệ đến tinh xá Trúc Lâm. Đến nơi, thấy đức Thế Tôn với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chiếu sáng quanh thân, oai nghi rực rỡ thù thắng vô cùng, liền sanh lòng hoan hỷ, tín kính, lễ Phật cầu xin xuất gia.

Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-La-hán, đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, Tám môn giải thoát, khắp cõi trời người ai gặp cũng đều kính trọng, ngưỡng mộ.

Bấy giờ, người cậu của Xá-lỵ-phất là ông Trường Trảo nghe tin Xá-lỵ-phất xuất gia theo Phật, trong lòng tức giận, tự suy nghĩ rằng: “Thằng cháu của ta sanh ra đã thông minh xuất chúng, uyên bác hơn người, các vị luận sư ở mười sáu nước lớn thảy đều kính phục, nay tại sao lại chịu đi theophụng sự lão Cù-đàm?”

Liền từ Nam Thiên Trúc tìm về, đến chỗ Phật mà tranh luận. Trường Trảo đến chỗ Phật rồi, liền nói rằng: “Này ông Cù-đàm, chỗ sở đắc của ta đây là không nhận bất cứ một pháp nào cả.”

Đức Phật liền nói: “Ông không chấp nhận pháp nào cả, như vậy có chấp nhận cách nghĩ như thế đó chăng?”

Trường Trảo giật mình, nhận ra chỗ sơ hở trong lập luận của mình, vì ông nói như thế tức là đã mặc nhiên “chấp nhận việc không chấp nhận”. Để chống đỡ, ông liền nói: “Ta không chấp nhận cả cách nghĩ như thế nữa.”

Phật nói: “Nếu không chấp nhận mọi pháp, cũng không chấp nhận cả cách nghĩ như thế, như vậy ông có khác gì những kẻ phàm phu không hiểu biết? Tại sao phải sanh tâm ngạo mạn mà coi thường hết thảy mọi người như thế?”

Trường Trảo không đáp được, liền khi đó sanh tâm tín phục, kính ngưỡng, quỳ lạy Phật xin được xuất gia nhập đạo. Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-La-hán.

Chư tỳ-kheo thấy việc như vậy liền thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị tỳ-kheo này do nhân duyên gì mà nay có thể xả bỏ tà kiến, quy y theo Phật, được thành đạo quả?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có vị Phật Bích-chi ở nơi rừng sâu mà thiền định.

Bấy giờ có 500 tên cướp, cướp được của người rồi muốn trốn vào nơi rừng vắng, mới cử một tên đi trước dò xem trong rừng có người hay chăng. Tên cướp ấy thấy Phật Bích-chi ngồi nơi gốc cây, liền bắt lấy, dùng dây trói lại mang đến chỗ tên đầu đảng. Cả đám đều muốn giết ngài đi.

Khi ấy Phật Bích-chi tự nghĩ rằng: “Nếu để chúng ngu si không biết mà giết hại ta, nghiệp ác đó tất đọa địa ngục chẳng mong ngày thoát. Ta nên hiện thần biếnthu phục chúng.”

Nghĩ vậy rồi, liền bay lên hư không, hiện đủ mười tám phép biến hóa. Bọn cướp nhìn thấy như vậy, tinh thần hoảng hốt, kinh sợ, tức thời quỳ xuống lễ bái cầu xin sám hối tội lỗi. Phật Bích-chi nhận cho sự sám hối đó rồi, liền cùng nhau thiết lễ trọng thểcúng dường Phật Bích-chi.

“Nhờ công đức ấy, trong vô số kiếp chẳng còn đọa vào các nẻo dữ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, trong cõi trời người thường được hưởng nhiều điều khoái lạc, sung sướng, cho đến nay gặp Phật, xuất gia đắc đạo.”

Phật lại dạy rằng: “Người đầu đảng của bọn cướp lúc ấy, nay là tỳ-kheo Trường Trảo đó.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10743)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10409)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11076)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11880)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13047)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13529)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33524)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11254)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11527)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17773)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11321)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11751)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11407)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18874)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12464)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11218)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13061)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15628)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11733)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11612)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12633)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12549)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13863)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12890)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12836)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13203)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12654)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12610)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11667)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12234)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12255)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19692)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11879)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11907)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16735)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12575)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14949)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15985)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12767)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11806)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13048)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16422)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13148)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12391)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11734)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19738)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11182)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10316)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10885)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9952)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11659)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant