Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Đệ tử phẩm - Đệ tam

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7912)
4. Đệ tử phẩm - Đệ tam

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
QUYỂN THƯỢNG

Đệ tử phẩm - Đệ tam

弟子品
第 三

爾時長者維摩詰自念。寢疾於牀。世尊大慈寧不垂愍。

佛知其意。即告舍利弗。汝行詣維摩詰問疾。

舍利弗白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔曾於林中宴坐樹下。時維摩詰來謂我言。唯舍利弗。不必是坐為宴坐也。夫宴坐者。不於三界現身 意。是為宴坐。不起滅定而現諸威儀。是為宴坐。不捨道法而現凡夫事。是為宴坐。心不住內亦不在外。是為宴坐。於諸見不動而修行三十七品。是為宴坐。不斷煩 惱而入涅槃。是為宴坐。若能如是坐者。佛所印可。

時我世尊。聞說是語默然而止不能加報。故我不任詣彼問疾。

佛告大目犍連。汝行詣維摩詰問疾。

目連白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔入毘耶離大城。於里巷中為諸居士說法。時維摩詰來謂我言。唯大目連。為白衣居士說法。不當如仁者 所說。夫說法者當如法說。法無衆生離衆生垢故。法無有我離我垢故。法無壽命離生死故。法無有人前後際斷故。法常寂然滅諸相故。法離於相無所緣故。法無名字 言語斷故。法無有說離覺觀故。法無形相如虛空故。法無戲論畢竟空故。法無我所離我所故。法無分別離諸識故。法無有比無相待故。法不屬因不在緣故。法同法性 入諸法故。法隨於如無所隨故。法住實際諸邊不動故。法無動搖不依六塵故。法無去來常不住故。法順空隨無相應無作。法離好醜。法無增損。法無生滅。法無所 歸。法過眼耳鼻舌身心。法無高下。法常住不動。法離一切觀行。

唯大目連。法相如是豈可說乎。夫說法者無說無示。其聽法者無聞無得。譬如幻士為幻人說法。當建是意而為說法。當了衆生根有利鈍。善於知見無所罣礙。以大悲心讚於大乘。念報佛恩不斷三寶。然後說法。

維摩詰說是法時。八百居士發阿耨多羅三藐三菩提心。我無此辯。是故不任詣彼問疾。

佛告大迦葉。汝行詣維摩詰問疾。

迦葉白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔於貧里而行乞。時維摩詰來謂我言。唯大迦葉。有慈悲心而不能普。捨豪富從貧乞。

迦葉。住平等法應次行乞食。為不食故應行乞食。為壞和合相故應取摶食。為不受故應受彼食。以空聚想入於聚落。所見色與盲等。所聞聲與響等。所嗅香與風等。所食味不分別。受諸觸如智證。知諸法如幻相無自性無他性。本自不然今則無滅。

迦葉。若能不捨八邪入八解脫。以邪相入正法。以一食施一切。供養諸佛及衆賢聖。然後可食。如是食者非有煩惱非離煩惱。非入定意非起定意。非住世間非住涅槃。其有施者無大福無小福。不為益不為損。是為正入佛道不依聲聞。

迦葉。若如是食為不空食人之施也。

時我世尊。聞說是語得未曾有。即於一切菩薩深起敬心。復作是念。斯有家名辯才智慧乃能如是。其誰不發阿耨多羅三藐三菩提心。我從是來不復勸人以聲聞辟支佛行。是故不任詣彼問疾。

佛告須菩提。汝行詣維摩詰問疾。

須菩提白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔入其舍從乞食。時維摩詰取我缽盛滿飯。謂我言。唯須菩提。若能於食等者諸法亦等。諸法等者於食 亦等。如是行乞乃可取食。若須菩提不斷婬怒癡亦不與俱。不壞於身而隨一相。不滅癡愛起於解脫。以五逆相而得解脫。亦不解不縛。不見四諦非不見諦。非得果非 不得果。非凡夫非離凡夫法。非聖人非不聖人。雖成就一切法而離諸法相。乃可取食。若須菩提。不見佛不聞法。彼外道六師。富蘭那迦葉。末伽梨拘賒梨子。刪闍 夜毘羅胝子。阿耆多翅舍欽婆羅。迦羅鳩馱迦旃延。尼犍陀若提子等是汝之師因其出家。彼師所墮汝亦隨墮。乃可取食。

若須菩提入諸邪見不到彼岸。住於八難不得無難。同於煩惱離清淨法。汝得無諍三昧。一切衆生亦得是定。其施汝者不名福田。供養汝者墮三惡道。為與衆魔共一手 作諸勞侶。汝與衆魔及諸塵勞等無有異。於一切衆生而有怨心。謗諸佛毀於法不入衆數。終不得滅度。汝若如是乃可取食。

時我世尊。聞此茫然不識是何言。不知以何答。便置缽欲出其舍。

維摩詰言。唯須菩提取缽勿懼。於意云何。如來所作化人。若以是事詰。寧有懼不。

我言。不也。

維摩詰言。一切諸法如幻化相。汝今不應有所懼也。所以者何。一切言說不離是相。至於智者不著文字故無所懼。何以故。文字性離。無有文字。是則解脫。解脫相者則諸法也。

維摩詰說是法時。二百天子得法眼淨。故我不任詣彼問疾。

佛告富樓那彌多羅尼子。汝行詣維摩詰問疾。

富樓那白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔於大林中在一樹下。為諸新學比丘說法。時維摩詰來謂我言。唯富樓那。先當入定觀此人心然後說 法。無以穢食置於寶器。當知是比丘心之所念。無以瑠璃同彼水精。汝不能知衆生根源。無得發起以小乘法。彼自無瘡勿傷之也。欲行大道莫示小徑。無以大海内於 牛跡。無以日光等彼螢火。

富樓那。此比丘久發大乘心。中忘此意。如何以小乘法而教導之。我觀小乘智慧微淺。猶如盲人不能分別一切衆生根之利鈍。

時維摩詰即入三昧。令此比丘自識宿命。曾於五百佛所植衆德本。迴向阿耨多羅三藐三菩提。即時豁然還得本心。於是諸比丘稽首禮維摩詰足。

時維摩詰因為說法。於阿耨多羅三藐三菩提不復退轉。我念聲聞不觀人根不應說法。是故不任詣彼問疾。

佛告摩訶迦旃延。汝行詣維摩詰問疾。

迦旃延白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念昔者佛為諸比丘略說法要。我即於後敷演其義。謂無常義苦義空義無我義寂滅義。時維摩詰來謂我言。唯迦旃延。無以生滅心行說實相法。

迦旃延。諸法畢竟不生不滅。是無常義。五受陰洞達空無所起。是苦義。諸法究竟無所有。是空義。於我無我而不二。是無我義。法本不然今則無滅。是寂滅義。

說是法時彼諸比丘心得解脫。故我不任詣彼問疾。

佛告阿那律。汝行詣維摩詰問疾。

阿那律白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔於一處經行。時有梵王名曰嚴淨。與萬梵俱放淨光明來詣我所。稽首作禮問我言。幾何阿那律天眼所見。

我即答言。仁者。吾見此釋迦牟尼佛土三千大千世界如觀掌中菴摩勒菓。

時維摩詰來謂我言。唯阿那律。天眼所見為作相耶。無作相耶。假使作相則與外道五通等。若無作相即是無為不應有見。

世尊。我時默然。彼諸梵聞其言。得未曾有。即為作禮而問曰。世孰有真天眼者。

維摩詰言。有佛世尊得真天眼。常在三昧悉見諸佛國不以二相。

於是嚴淨梵王及其眷屬五百梵天皆發阿耨多羅三藐三菩提心。禮維摩詰足已忽然不現。故我不任詣彼問疾。

佛告優波離。汝行詣維摩詰問疾。

優波離白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念昔者有二比丘。犯律行以為恥。不敢問佛。來問我言。唯優波離。我等犯律誠以為恥。不敢問佛。願解疑悔得免斯咎。我即為其如法解說。

時維摩詰來謂我言。唯優波離。無重增此二比丘罪。當直除滅勿擾其心。所以者何。彼罪性不在內不在外不在中間。如佛所說。心垢故衆生垢。心淨故衆生淨。心亦不在內不在外不在中間。如其心然。罪垢亦然。諸法亦然。不出於如。

如優波離。以心相得解脫時。寧有垢不。

我言。不也。

維摩詰言。一切衆生心相無垢亦復如是。

唯優波離。妄想是垢無妄想是淨。顛倒是垢。無顛倒是淨。取我是垢。不取我是淨。

優波離。一切法生滅不住。如幻如電諸法不相待。乃至一念不住。諸法皆妄見。如夢如燄如水中月如鏡中像以妄想生。其知此者是名奉律。其知此者是名善解。

於是二比丘言。上智哉。是優波離所不能及。持律之上而不能說。

我答言。自捨如來未有聲聞及菩薩能制其樂說之辯。其智慧明達為若此也。

時二比丘疑悔即除。發阿耨多羅三藐三菩提心。作是願言。令一切衆生皆得是辯。

故我不任詣彼問疾。

佛告羅睺羅。汝行詣維摩詰問疾。

羅睺羅白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念昔時毘耶離諸長者子。來詣我所稽首作禮問我言。唯羅睺羅。汝佛之子。捨轉輪王位出家為道。其出家者有何等利。

我即如法為說出家功德之利。

時維摩詰來謂我言。唯羅睺羅。不應說出家功德之利。所以者何。無利無功德是為出家。有為法者可說有利有功德。夫出家者為無為法。無為法中無利無功德。

羅睺羅。出家者無彼無此亦無中間。離六十二見處於涅槃。智者所受聖所行處。降伏衆魔度五道淨五眼得五力立五根。不惱於彼。離衆雜惡摧諸外道。超越假名出淤泥無繫著無我所無所受無擾亂內懷喜護彼意。隨禪定離衆過。若能如是是真出家。

於是維摩詰語諸長者子。汝等於正法中宜共出家。所以者何。佛世難值。

諸長者子言。居士。我聞佛言。父母不聽不得出家。

維摩詰言。然汝等便發阿耨多羅三藐三菩提心是即出家。是即具足。

爾時三十二長者子。皆發阿耨多羅三藐三菩提心。故我不任詣彼問疾。

佛告阿難。汝行詣維摩詰問疾。

阿難白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念昔時世尊身小有疾當用牛乳。我即持缽詣大婆羅門家門下立。時維摩詰來謂我言。唯阿難。何為晨朝持缽住此。

我言。居士。世尊身小有疾當用牛乳。故來至此。

維摩詰言。止止阿難。莫作是語。如來身者金剛之體。諸惡已斷衆善普會。當有何疾。當有何惱。

默往阿難。勿謗如來。莫使異人聞此麤言。無令大威德諸天及他方淨土諸來菩薩得聞斯語。

阿難。轉輪聖王以少福故尚得無病。豈況如來無量福會普勝者哉。

行矣阿難。勿使我等受斯恥也。外道梵志若聞此語當作是念。何名為師。自疾不能救而能救諸疾人。可密速去勿使人聞。

當知阿難。諸如來身即是法身非思欲身。佛為世尊過於三界。佛身無漏諸漏已盡。佛身無為不墮諸數。如此之身當有何疾。

時我世尊實懷慚愧。得無近佛而謬聽耶。即聞空中聲曰。阿難。如居士言。但為佛出五濁惡世。現行斯法度脫衆生。

行矣阿難。取乳勿慚。

世尊。維摩詰智慧辯才為若此也。是故不任詣彼問疾。

如是五百大弟子。各各向佛說其本緣。稱述維摩詰所言。皆曰不任詣彼問疾。


Đệ Tử Phẩm
Đệ tam

Nhĩ thời, Trưởng giả Duy-ma-cật tự niệm tẩm tật ư sàng: Thế Tôn đại từ! Ninh bất thùy mẫn?
Phật tri kỳ ý, tức cáo Xá-lỵ-phất: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Xá-lỵ-phất bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, tằng ư lâm trung, yến tọa thọ hạ. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Bất tất thị tọa vi yến tọa dã. Phù yến tọa giả, bất ư Tam giới hiện thân ý, thị vi yến tọa. Bất khởi diệt định nhi hiện chư oai nghi, thị vi yến tọa. Bất xả đạo pháp nhi hiện phàm phu sự, thị vi yến tọa. Tâm bất trụ nội, diệc bất tại ngoại, thị vi yến tọa. Ư chư kiến bất động, nhi tu hành tam thập thất phẩm, thị vi yến tọa. Bất đoạn phiền não nhi nhập Niết-bàn, thị vi yến tọa. Nhược năng như thị tọa giả, Phật sở ấn khả.
Thời ngã, Thế Tôn, văn thuyết thị ngữ, mặc nhiên nhi chỉ, bất năng gia báo. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Đại Mục-kiền-liên: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Mục-liên bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích nhập Tỳ-da-ly đại thành. Ư lý hạng trung, vị chư cư sĩ thuyết pháp. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Đại Mục-liên! Vị bạch y cư sĩ thuyết pháp, bất đương như nhân giả sở thuyết. Phù thuyết pháp giả, đương như pháp thuyết. Pháp vô chúng sinh, ly chúng sinh cấu cố. Pháp vô thọ mạng, ly sinh tử cố. Pháp vô hữu nhân, tiền hậu tế đoạn cố. Pháp thường tịch nhiên, diệt chư tướng cố. Pháp ly ư tướng, vô sở duyên cố. Pháp vô danh tự, ngôn ngữ đoạn cố. Pháp vô hữu thuyết, ly giác quan cố. Pháp vô hình tướng, như hư không cố. Pháp vô hý luận, tất cánh không cố. Pháp vô ngã sở, ly ngã sở cố. Pháp vô phân biệt, ly chư thức cố. Pháp vô hữu tỷ, vô tương đãi cố. Pháp bất thuộc nhân, bất tại duyên cố. Pháp đồng pháp tánh, nhập chư pháp cố. Pháp tùy ư như, vô sở tùy cố. Pháp trụ thật tế, chư biên bất động cố. Pháp vô động dao, bất y lục trần cố. Pháp vô khứ lai, thường bất trụ cố. Pháp thuận không, tùy vô tướng, ứng vô tác. Pháp ly hảo xú. Pháp vô tăng tổn. Pháp vô sinh diệt. Pháp vô sở quy. Pháp quá nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm. Pháp vô cao hạ. Pháp thường trụ bất động. Pháp ly nhất thiết quan hành.
Duy, Đại Mục-liên! Pháp tướng như thị. Khởi khả thuyết hồ? Phù thuyết pháp giả, vô thuyết, vô thị. Kỳ thính pháp giả, vô văn, vô đắc. Thí như ảo sĩ, vị ảo nhân thuyết pháp. Đương kiến thị ý, nhi vị thuyết pháp. Đương liễu chúng sinh căn hữu lợi độn. Thiện ư tri kiến, vô sở quái ngại. Dĩ đại bi tâm, tán ư Đại thừa. Niệm báo Phật ân, bất đoạn Tam bảo. Nhiên hậu thuyết pháp.
Duy-ma-cật thuyết thị pháp thời, bát bá cư sĩ phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Ngã vô thử biện. Thị cố bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Đại Ca-diếp: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Ca-diếp bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, ư bần lý nhi hành khất. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Đại Ca-diếp! Hữu từ bi tâm, nhi bất năng phổ: xả hào phú, tùng bần khất.
Ca-diếp! Trụ bình đẳng pháp: ưng thứ hành khất thực. Vị bất thực cố, ưng hành khất thực. Vị hoại hòa hiệp tướng cố, ưng thủ đoàn thực. Vị bất thọ cố, ưng thọ bỉ thực. Dĩ không tụ tưởng, nhập ư tụ lạc. Sở kiến sắc dữ manh đẳng. Sở văn thinh dữ hưởng đẳng. Sở khứu hương dữ phong đẳng. Sở thực vị bất phân biệt. Thọ chư xúc như trí chứng. Tri chư pháp như ảo tướng, vô tự tánh, vô tha tánh, bổn tự bất nhiên, kim tắc vô diệt.
Ca-diếp! Nhược năng bất xả bát tà, nhập bát giải thoát, dĩ tà tướng nhập chánh pháp, dĩ nhất thực thí nhất thiết, cúng dường chư Phật cập chúng hiền thánh, nhiên hậu khả thực. Như thị thực giả, phi hữu phiền não, phi ly phiền não, phi nhập định ý, phi khởi định ý, phi trụ thế gian, phi trụ Niết-bàn. Kỳ hữu thí giả, vô đại phước, vô tiểu phước, bất vi ích, bất vi tổn. Thị vi chánh nhập Phật đạo, bất y Thanh văn.
Ca-diếp! Nhược như thị thực, vi bất không thực nhân chi thí dã.
Thời ngã, Thế Tôn, văn thuyết thị ngữ, đắc vị tằng hữu. Tức ư nhất thiết Bồ Tát, thâm khởi kính tâm. Phục tác thị niệm: Tư hữu gia danh, biện tài trí huệ nãi năng như thị. Kỳ thùy bất phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm? Ngã tùng thị lai bất phục khuyến nhân dĩ Thanh văn, Bích chi Phật hạnh. Thị cố bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Tu-bồ-đề: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, nhập kỳ xá tùng khất thực. Thời, Duy-ma-cật thủ ngã bát, thành mãn phạn, vị ngã ngôn: Duy, Tu-bồ-đề! Nhược năng ư thực đẳng giả, chư pháp diệc đẳng. Chư pháp đẳng giả, ư thực diệc đẳng. Như thị hành khất, nãi khả thủ thực. Nhược Tu-bồ-đề bất đoạn dâm, nộ, si, diệc bất dữ câu. Bất hoại ư thân, nhi tùy nhất tướng. Bất diệt si ái, khởi ư giải thoát. Dĩ ngũ nghịch tướng nhi đắc giải thoát. Diệc bất giải, bất phược. Bất kiến tứ đế, phi bất kiến đế. Phi đắc quả, phi bất đắc quả. Phi phàm phu, phi ly phàm phu pháp. Phi thánh nhân, phi bất thánh nhân. Tuy thành tựu nhất thiết pháp, nhi ly chư pháp tướng, nãi khả thủ thực. Nhược Tu-bồ-đề bất kiến Phật, bất văn pháp, bỉ ngoại đạo Lục sư: Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-già-lê Câu-xa-lê tử, Xan-xà-dạ Tỳ-la-đê tử, A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la, Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên, Ni-kiền-đà Nhã-đề tử đẳng thị nhữ chi sư. Nhân kỳ xuất gia, bỉ sư sở đọa, nhữ diệc tùy đọa, nãi khả thủ thực.
Nhược Tu-bồ-đề nhập chư tà kiến, bất đáo bỉ ngạn, trụ ư bát nạn, bất đắc vô nạn, đồng ư phiền não, ly thanh tịnh pháp. Nhữ đắc vô tranh Tam-muội. Nhất thiết chúng sinh diệc đắc thị định. Kỳ thí nhữ giả, bất danh phước điền. Cúng dường nhữ giả, đọa tam ác đạo, vi dữ chúng ma cộng nhất thủ, tác chư lao lữ. Nhữ dữ chúng ma, cập chư trần lao, đẳng vô hữu dị. Ư nhất thiết chúng sinh, nhi hữu oán tâm. Báng chư Phật, hủy ư pháp, bất nhập chúng số, chung bất đắc diệt độ. Nhữ nhược như thị, nãi khả thủ thực.
Thời ngã, Thế Tôn, văn thử mang nhiên, bất thức thị hà ngôn, bất tri dĩ hà đáp. Tiện trí bát, dục xuất kỳ xá.
Duy-ma-cật ngôn: Duy, Tu-bồ-đề! Thủ bát vật cụ. Ư ý vân hà? Như Lai sở tác hóa nhân, nhược dĩ thị sự cật, ninh hữu cụ phủ?
Ngã ngôn: Phất dã.
Duy-ma-cật ngôn: Nhất thiết chư pháp, như ảo hóa tướng. Nhữ kim bất ưng hữu sở cụ giã. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết ngôn thuyết bất ly thị tướng. Chí ư trí giả bất trước văn tự, cố vô sở cụ. Hà dĩ cố? Văn tự tánh ly. Vô hữu văn tự, thị tắc giải thoát. Giải thoát tướng giả, tắc chư pháp dã.
Duy-ma-cật thuyết thị pháp thời, nhị bá thiên tử đắc pháp nhãn tịnh. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Phú-lâu-na Di-đa-la-ni tử: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Phú-lâu-na bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, ư đại lâm trung, tại nhất thọ hạ, vị chư tân học tỳ-kheo thuyết pháp. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Phú-lâu-na! Tiên đương nhập định, quán thử nhân tâm, nhiên hậu thuyết pháp. Vô dĩ uế thực, trí ư bảo khí. Đương tri thị tỳ-kheo tâm chi sở niệm. Vô dĩ lưu ly đồng bỉ thủy tinh. Nhữ bất năng tri chúng sinh căn nguyên, vô đắc phát khởiTiểu thừa pháp. Bỉ tự vô sang, vật thương chi dã. Dục hành đại đạo, mạc thị tiểu kinh. Vô dĩ đại hải nạp ư ngưu tích. Vô dĩ nhật quang đẳng bỉ huỳnh hỏa.
Phú-lâu-na! Thử tỳ-kheo cửu phát Đại thừa tâm, trung vong thử ý. Như hà dĩ Tiểu thừa pháp nhi giáo đạo chi? Ngã quan Tiểu thừa trí huệ vi thiển: Du như manh nhân, bất năng phân biệt nhất thiết chúng sinh căn chi lợi độn.
Thời, Duy-ma-cật tức nhập Tam-muội, linh thử tỳ-kheo tự thức túc mạng, tằng ư ngũ bá Phật sở thực chúng đức bổn, hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tức thời hoát nhiên, hoàn đắc bổn tâm. Ư thị, chư tỳ-kheo khể thủ lễ Duy-ma-cật túc.
Thời, Duy-ma-cật nhân vị thuyết pháp, ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, bất phục thối chuyển. Ngã niệm Thanh văn bất quán nhân căn, bất ưng thuyết pháp. Thị cố bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Ma-ha Ca-chiên-diên: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Ca-chiên-diên bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm tích giả, Phật vị chư tỳ-kheo lược thuyết pháp yếu. Ngã tức ư hậu, phu diễn kỳ nghĩa. Vị vô thường nghĩa, khổ nghĩa, không nghĩa, vô ngã nghĩa, tịch diệt nghĩa. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Ca-chiên-diên! Vô dĩ sinh diệt tâm hạnh, thuyết thật tướng pháp.
Ca-chiên-diên! Chư pháp tất cánh bất sinh, bất diệt, thị vô thường nghĩa. Ngũ thọ ấm đổng đạt, không vô sở khởi: thị khổ nghĩa. Chư pháp cứu cánh vô sở hữu: thị không nghĩa. Ư ngã, vô ngã nhi bất nhị: thị vô ngã nghĩa. Pháp bổn bất nhiên, kim tắc vô diệt, thị tịch diệt nghĩa.
Thuyết thị pháp thời, bỉ chư tỳ-kheo tâm đắc giải thoát. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo A-na-luật: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
A-na-luật bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, ư nhất xứ kinh hành. Thời hữu Phạm vương, danh viết Nghiêm Tịnh, dữ vạn Phạm câu phóng tịnh quang minh, lai nghệ ngã sở, khể thủ tác lễ, vấn ngã ngôn: Kỷ hà A-na-luật thiên nhãn sở kiến?
Ngã tức đáp ngôn: Nhân giả! Ngô kiến thử Thích-ca Mâu-ni Phật độ, tam thiên đại thiên thế giới, như quan chưởng trung am-ma-lặc quả.
Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, A-na-luật! Thiên nhãn sở kiến, vi tác tướng da? Vô tác tướng da? Giả sử tác tướng, tắc dữ ngoại đạo ngũ thông đẳng. Nhược vô tác tướng, tức thị vô vi, bất ưng hữu kiến.
Thế Tôn! Ngã thời mặc nhiên. Bỉ chư Phạm văn kỳ ngôn, đắc vị tằng hữu. Tức vị tác lễ, nhi vấn viết: Thế thục hữu chân thiên nhãn giả?
Duy-ma-cật ngôn: Hữu Phật Thế Tôn đắc chân thiên nhãn. Thường tại Tam-muội, tất kiến chư Phật quốc, bất dĩ nhị tướng.
Ư thị, Nghiêm Tịnh Phạm vương cập kỳ quyến thuộc ngũ bá Phạm thiên giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Lễ Duy-ma-cật túc dĩ, hốt nhiên bất hiện. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Ưu-ba-ly: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Ưu-ba-ly bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm tích giả, hữu nhị tỳ-kheo phạm luật hạnh. Dĩ vi sỉ, bất cảm vấn Phật, lai vấn ngã ngôn: Duy, Ưu-ba-ly! Ngã đẳng phạm luật, thành dĩ vi sỉ, bất cảm vấn Phật. Nguyện giải nghi hối, đắc miễn tư cữu. Ngã tức vị kỳ như pháp giải thuyết.
Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Ưu-ba-ly! Vô trọng tăng thử nhị tỳ-kheo tội, đương trực trừ diệt, vật nhiễu kỳ tâm. Sở dĩ giả hà? Bỉ tội tánh bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian. Như Phật sở thuyết: tâm cấu, cố chúng sinh cấu, tâm tịnh, cố chúng sinh tịnh. Tâm diệc bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian. Như kỳ tâm nhiên, tội cấu diệc nhiên, chư pháp diệc nhiên, bất xuất ư như.
Như Ưu-ba-ly dĩ tâm tướng đắc giải thoát thời, ninh hữu cấu phủ?
Ngã ngôn: Phất dã.
Duy-ma-cật ngôn: Nhất thiết chúng sinh tâm tướng vô cấu, diệc phục như thị.
Duy, Ưu-ba-ly! Vọng tưởng thị cấu, vô vọng tưởng thị tịnh. Điên đảo thị cấu, vô điên đảo thị tịnh. Thủ ngã thị cấu, bất thủ ngã thị tịnh.
Ưu-ba-ly! Nhất thiết pháp sinh diệt bất trụ, như ảo, như điện. Chư pháp bất tương đãi, nãi chí nhất niệm bất trụ. Chư pháp giai vọng kiến, như mộng, như diệm, như thủy trung nguyệt, như kính trung tượng, dĩ vọng tưởng sinh. Kỳ tri thử giả, thị danh phụng luật. Kỳ tri thử giả, thị danh thiện giải.
Ư thị, nhị tỳ-kheo ngôn: Thượng trí tai! Thị Ưu-ba-ly sở bất năng cập. Trì luật chi thượng nhi bất năng thuyết.
Ngã đáp ngôn: Tự xả Như Lai, vị hữu Thanh văn cập Bồ Tát năng chế kỳ lạc thuyết chi biện, kỳ trí huệ minh đạt vi nhược thử dã.
Thời, nhị tỳ-kheo nghi hối tức trừ, phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Tác thị nguyện ngôn: Linh nhất thiết chúng sinh giai đắc thị biện.
Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo La-hầu-la: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
La-hầu-la bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm tích thời, Tỳ-da-ly chư trưởng giả tử lai nghệ ngã sở, khể thủ tác lễ, vấn ngã ngôn: Duy, La-hầu-la! Nhữ Phật chi tử, xả Chuyển luân vương vị, xuất gia vi đạo. Kỳ xuất gia giả, hữu hà đẳng lợi?
Ngã tức như pháp, vị thuyết xuất gia công đức chi lợi.
Thời Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, La-hầu-la! Bất ưng thuyết xuất gia công đức chi lợi. Sở dĩ giả hà? Vô lợi, vô công đức, thị vi xuất gia. Hữu vi pháp giả, khả thuyết hữu lợi, hữu công đức. Phù xuất gia giả, vi vô vi pháp. Vô vi pháp trung, vô lợi, vô công đức.
La-hầu-la! Phù xuất gia giả, vô bỉ, vô thử, diệc vô trung gian. Ly lục thập nhị kiến, xử ư Niết-bàn. Trí giả sở thọ, thánh sở hành xứ. Hàng phục chúng ma, độ ngũ đạo, tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực, lập ngũ căn, bất não ư bỉ, ly chúng tạp ác, tồi chư ngoại đạo, siêu việt giả danh, xuất ứ nê, vô hệ trước, vô ngã sở, vô sở thọ, vô nhiễu loạn nội hoài, hỷ hộ bỉ ý, tùy thiền định, ly chúng quá. Nhược năng như thị, thị chân xuất gia.
Ư thị, Duy-ma-cật ngứ chư trưởng giả tử: Nhữ đẳng ư chánh pháp trung, nghi cộng xuất gia. Sở dĩ giả hà? Phật thế nan trị.
Chư trưởng giả tử ngôn: Cư sĩ! Ngã văn Phật ngôn: Phụ mẫu bất thính, bất đắc xuất gia.
Duy-ma-cật ngôn: Nhiên, nhữ đẳng tiện phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Thị tức xuất gia. Thị tức cụ túc.
Nhĩ thời, tam thập nhị trưởng giả tử, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo A-nan: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
A-nan bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm tích thời, Thế Tôn thân tiểu hữu tật, đương dụng ngưu nhũ. Ngã tức trì bát, nghệ đại bà-la-môn gia môn hạ lập. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, A-nan! Hà vi thần triêu trì bát trụ thử?
Ngã ngôn: Cư sĩ! Thế Tôn thân tiểu hữu tật, đương dụng ngưu nhũ. Cố lai chí thử.
Duy-ma-cật ngôn: Chỉ chỉ! A-nan! Mạc tác thị ngữ. Như Lai thân giả, kim cang chi thể, chư ác dĩ đoạn, chúng thiện phổ hội. Đương hữu hà tật? Đương hữu hà não?
Mặc vãng A-nan! Vật báng Như Lai. Mạc sử dị nhân văn thử thô ngôn. Vô linh đại oai đức chư thiên cập tha phương tịnh độ chư lai Bồ Tát đắc văn tư ngữ.
A-nan! Chuyển luân Thánh vương dĩ thiểu phước cố, thượng đắc vô bệnh. Khởi huống Như Lai, vô lượng phước hội, phổ thắng giả tai!
Hành hỹ, A-nan! Vật sử ngã đẳng thọ tư sỉ dã. Ngoại đạo Phạm chí, nhược văn thử ngữ, đương tác thị niệm: Hà danh vi sư? Tự tật bất năng cứu, nhi năng cứu chư tật nhân! Khả mật tốc khứ, vật sử nhân văn.
Đương tri, A-nan! Chư Như Lai thân, tức thị Pháp thân, phi tư dục thân. Phật vi Thế Tôn, quá ư Tam giới. Phật thân vô lậu, chư lậu dĩ tận. Phật thân vô vi, bất đọa chư số. Như thử chi thân, đương hữu hà tật?
Thời ngã, Thế Tôn, thật hoài tàm quý, đắc vô cận Phật nhi mậu thính da? Tức văn không trung thanh viết: A-nan! Như cư sĩ ngôn, đản vi Phật xuất ngũ trược ác thế, hiện hành tư pháp, độ thoát chúng sinh.
Hành hỹ, A-nan! Thủ nhũ vật tàm.
Thế Tôn! Duy-ma-cật trí huệ biện tài vi nhược thử dã. Thị cố bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Như thị ngũ bá đại đệ tử, các các hướng Phật, thuyết kỳ bổn duyên, xưng thuật Duy-ma-cật sở ngôn. Giai viết: Bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14764)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11827)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12758)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10341)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12067)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15293)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11079)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10535)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12472)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16428)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14310)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11787)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14801)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12030)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16854)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11587)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12736)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11343)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12058)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52119)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15466)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13967)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11442)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13180)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12786)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13220)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17910)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12453)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12655)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54206)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14425)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9931)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13824)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57967)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14498)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20140)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13781)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15402)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17494)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11925)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13488)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14668)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12492)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12155)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12063)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13289)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12541)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13658)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25599)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12177)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14559)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11860)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42072)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28338)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38801)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14720)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12691)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16238)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant