Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Bất khả tư nghị phẩm - Đệ lục

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7792)
7. Bất khả tư nghị phẩm - Đệ lục

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN TRUNG

Bất khả tư nghị phẩm - Đệ lục

不 思 議 品
第 六

爾時舍利弗。見此室中無有牀座。作是念。斯諸菩薩大弟子衆當於何坐。

長者維摩詰知其意。語舍利弗言。云何仁者為法來耶為牀座耶。

舍利弗言。我為法來非為牀座。

維摩詰言。唯舍利弗。夫求法者不貪軀命。何況牀座。

夫求法者。非有色受想行識之求。非有入界之求。非有欲色無色之求。

唯舍利弗。夫求法者。不著佛求不著法求不著衆求。

夫求法者。無見苦求。無斷集求。無造盡證修道之求。所以者何。法無戲論。若言我當見苦斷集證滅修道。是則戲論非求法也。

唯舍利弗。法名寂滅。若行生滅是求生滅非求法也。

法名無染。若染於法乃至涅槃。是則染著非求法也。

法無行處。若行於法是則行處非求法也。

法無取捨。若取捨法是則取捨非求法也。

法無處所。若著處所。是則著處非求法也。

法名無相。若隨相識是則求相非求法也。

法不可住。若住於法是則住法非求法也。

法不可見聞覺知。若行見聞覺知是則見聞覺知非求法也。

法名無為。若行有為是求有為非求法也。

是故舍利弗。若求法者。於一切法應無所求。

說是語時。五百天子於諸法中得法眼淨。

爾時長者維摩詰問文殊師利。仁者遊於無量千萬億阿僧祇國。何等佛土有好上妙功德成就師子之座。

文殊師利言。居士。東方度三十六恒河沙國有世界。名須彌相。其佛號須彌燈王今現在。彼佛身長八萬四千由旬。其師子座高八萬四千由旬嚴飾第一。

於是長者維摩詰。現神通力。即時彼佛遣三萬二千師子之座高廣嚴淨來入維摩詰室。諸菩薩大弟子釋梵四天王等昔所未見。其室廣博悉皆包容三萬二千師子座。無所妨礙。於毘耶離城及閻浮提四天下亦不迫迮。悉見如故。

爾時維摩詰語文殊師利。就師子座。與諸菩薩上人俱坐。當自立身如彼座像。其得神通菩薩即自變形。為四萬二千由旬坐師子座。諸新發意菩薩及大弟子皆不能昇。

爾時維摩詰語舍利弗。就師子座。

舍利弗言。居士。此座高廣吾不能昇。

維摩詰言。唯舍利弗。為須彌燈王如來作禮乃可得坐。

於是新發意菩薩及大弟子即為須彌燈王如來作禮。便得坐師子座。

舍利弗言。居士未曾有也。如是小室乃容受此高廣之座。於毘耶離城無所妨礙。又於閻浮提聚落城邑及四天下諸天龍王鬼神宮殿。亦不迫迮。

維摩詰言。唯舍利弗。諸佛菩薩有解脫名不可思議。若菩薩住是解脫者。以須彌之高廣内芥子中無所增減。須彌山王本相如故。而四天王忉利諸天。不覺不知己之所入。唯應度者乃見須彌入芥子中。是名不可思議解脫法門。

又以四大海水入一毛孔。不嬈魚鱉黿鼉水性之屬。而彼大海本相如故。諸龍鬼神阿修羅等不覺不知己之所入。於此衆生亦無所嬈。

又舍利弗。住不可思議解脫菩薩。斷取三千大千世界如陶家輪著右掌中。擲過恒河沙世界之外。其中衆生不覺不知己之所往。又復還置本處。都不使人有往來想。而此世界本相如故。

又舍利弗。或有衆生樂久住世而可度者。菩薩即演七日以為一劫。令彼衆生謂之一劫。或有衆生不樂久住而可度者。菩薩即促一劫以為七日。令彼衆生謂之七日。

又舍利弗。住不可思議解脫菩薩。以一切佛土嚴飾之事。集在一國示於衆生。又菩薩以一切佛土衆生置之右掌。飛到十方遍示一切。而不動本處。

又舍利弗十方衆生供養諸佛之具。菩薩於一毛孔皆令得見。又十方國土所有日月星宿。於一毛孔普使見之。

又舍利弗。十方世界所有諸風。菩薩悉能吸著口中而身無損。外諸樹木亦不摧折。

又十方世界劫盡燒時。以一切火内於腹中。火事如故而不為害。又於下方過恒河沙等諸佛世界。取一佛土舉著上方。過恒河沙無數世界。如持鍼鋒舉一棗葉而無所嬈。

又舍利弗。住不可思議解脫菩薩。能以神通現作佛身。或現辟支佛身。或現聲聞身。或現帝釋身。或現梵王身。或現世主身。或現轉輪王身。又十方世界所有衆聲。上中下音皆能變之令作佛聲。演出無常苦空無我之音。及十方諸佛所說種種之法。皆於其中。普令得聞。

舍利弗。我今略說菩薩不可思議解脫之力。若廣說者窮劫不盡。

是時大迦葉。聞說菩薩不可思議解脫法門。歎未曾有。謂舍利弗。譬如有人於盲者前現衆色像非彼所見。一切聲聞聞是不可思議解脫法門不能解了為若此也。智者聞 是。其誰不發阿耨多羅三藐三菩提心。我等何為永絕其根。於此大乘已如敗種。一切聲聞聞是不可思議解脫法門。皆應號泣聲震三千大千世界。一切菩薩應大欣慶頂 受此法。若有菩薩信解不可思議解脫法門者。一切魔衆無如之何。

大迦葉說此語時。三萬二千天子皆發阿耨多羅三藐三菩提心。

爾時維摩詰語大迦葉。仁者。十方無量阿僧祇世界中作魔王者。多是住不可思議解脫菩薩。以方便力故教化衆生現作魔王。

又迦葉。十方無量菩薩。或有人從乞手足耳鼻頭目髓腦血肉皮骨聚落城邑妻子奴婢象馬車乘金銀瑠璃車磲瑪瑙珊瑚琥珀真珠珂貝衣服飲食。如此乞者多是住不可思議 解脫菩薩。以方便力而往試之令其堅固。所以者何。住不可思議解脫菩薩。有威德力故行逼迫。示諸衆生如是難事。凡夫下劣無有力勢。不能如是逼迫菩薩。譬如龍 象蹴踏非驢所堪。是名住不可思議解脫菩薩智慧方便之門。


Bất Tư Nghị Phẩm
Đệ lục

Nhĩ thời, Xá-lỵ-phất kiến thử thất trung, vô hữu sàng tọa, tác thị niệm: Tư chư Bồ Tát, đại đệ tử chúng đương ư hà tọa?

Trưởng giả Duy-ma-cật, tri kỳ ý, ngứ Xá-lỵ-phất ngôn: Vân hà nhân giả vị pháp lai da? Vị sàng tọa da?

Xá-lỵ-phất ngôn: Ngã vị pháp lai, phi vị sàng tọa.

Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Phù cầu pháp giả, bất tham xu mạng, hà huống sàng tọa?

Phù cầu pháp giả, phi hữu sắc, thọ, tưởng, hành, thức chi cầu. Phi hữu nhập, giới chi cầu. Phi hữu dục, sắc, vô sắc chi cầu.

Duy, Xá-lỵ-phất! Phù cầu pháp giả, bất trước Phật cầu. Bất trước Pháp cầu. Bất trước Chúng cầu.

Phù cầu pháp giả, vô kiến khổ cầu. Vô đoạn tập cầu. Vô tạo tận chứng, tu đạo chi cầu. Sở dĩ giả hà? Pháp vô hý luận. Nhược ngôn: Ngã đương kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo. Thị tắc hý luận, phi cầu pháp dã.

Duy, Xá-lỵ-phất! Pháp danh tịch diệt. Nhược hành sinh diệt, thị cầu sinh diệt, phi cầu pháp dã.

Pháp danh vô nhiễm. Nhược nhiễm ư pháp, nãi chí Niết-bàn, thị tắc nhiễm trước, phi cầu pháp dã.

Pháp vô hành xứ. Nhược hành ư pháp, thị tắc hành xứ, phi cầu pháp dã.

Pháp vô thủ xả. Nhược thủ xả pháp, thị tắc thủ xả, phi cầu pháp dã.

Pháp vô xứ sở. Nhược trước xứ sở, thị tắc trước xứ, phi cầu pháp dã.

Pháp danh vô tướng. Nhược tùy tướng thức, thị tắc cầu tướng, phi cầu pháp dã.

Pháp bất khả trụ. Nhược trụ ư pháp, thị tắc trụ pháp, phi cầu pháp dã.

Pháp bất khả kiến văn giác tri. Nhược hành kiến văn giác tri, thị tắc kiến văn giác tri, phi cầu pháp dã.

Pháp danh vô vi. Nhược hành hữu vi, thị cầu hữu vi, phi cầu pháp dã.

Thị cố Xá-lỵ-phất! Nhược cầu pháp giả, ư nhất thiết pháp, ưng vô sở cầu.

Thuyết thị ngữ thời, ngũ bá thiên tử, ư chư pháp trung đắc pháp nhãn tịnh.

Nhĩ thời, Trưởng giả Duy-ma-cật vấn Văn-thù-sư-lợi: Nhân giả du ư vô lượng thiên vạn ức a-tăng-kỳ quốc. Hà đẳng Phật độ hữu hảo thượng diệu công đức thành tựu sư tử chi tòa?

Văn-thù-sư-lợi ngôn: Cư sĩ, Đông phương độ tam thập lục Hằng hà sa quốc, hữu thế giới danh Tu-di Tướng. Kỳ Phật hiệu Tu-di Đăng Vương kim hiện tại. Bỉ Phật thân trường bát vạn tứ thiên do-tuần. Kỳ Sư tử tòa cao bát vạn tứ thiên do-tuần, nghiêm sức đệ nhất.

Ư thị, Trưởng giả Duy-ma-cật hiện thần thông lực. Tức thời, bỉ Phật khiển tam vạn nhị thiên sư tử chi tòa, cao quảng nghiêm tịnh, lai nhập Duy-ma-cật thất. Chư Bồ Tát, đại đệ tử, Thích, Phạm, Tứ thiên vương đẳng, tích sở vị kiến. Kỳ thất quảng bác, tất giai bao dung tam vạn nhị thiên sư tử tòa, vô sở phường ngại. Ư Tỳ-da-ly thành cập Diêm-phù-đề, Tứ thiên hạ, diệc bất bách trách, tất kiến như cố.

Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Văn-thù-sư-lợi: Tựu sư tử tòa, dữ chư Bồ Tát thượng nhân câu tọa. Đương tự lập thân như bỉ tòa tượng. Kỳ đắc thần thông Bồ Tát tức tự biến hình vi tứ vạn nhị thiên do-tuần, tọa Sư tử tòa. Chư tân phát ý Bồ Tát cập đại đệ tử giai bất năng thăng.

Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Xá-lỵ-phất: Tựu Sư tử tòa.

Xá-lỵ-phất ngôn: Cư sĩ, thử tòa cao quảng, ngô bất năng thăng.

Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Vị Tu-di Đăng Vương Như Lai tác lễ, nãi khả đắc tọa.

Ư thị, tân phát ý Bồ Tát cập đại đệ tử tức vị Tu-di Đăng Vương Như Lai tác lễ, tiện đắc tọa sư tử tòa.

Xá-lỵ-phất ngôn: Cư sĩ, vị tằng hữu dã! Như thị tiểu thất nãi dung thọ thử cao quảng chi tòa! Ư Tỳ-da-ly thành, vô sở phường ngại. Hựu ư Diêm-phù-đề tụ lạc thành ấp, cập Tứ thiên hạ chư thiên, long vương, quỷ thần cung điện, diệc bất bách trách.

Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Chư Phật, Bồ Tát hữu giải thoát, danh Bất khả tư nghị. Nhược Bồ Tát trụ thị giải thoát giả, dĩ Tu-di chi cao quảng nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm. Tu-di sơn vương bổn tướng như cố. Nhi Tứ thiên vương, Đao-lỵ chư thiên bất giác bất tri kỷ chi sở nhập. Duy ứng độ giả nãi kiến Tu-di nhập giới tử trung. Thị danh Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn.

Hựu dĩ tứ đại hải thủy nhập nhất mao khổng, bất nhiễu ngư, biết, nguyên, đà thủy tánh chi thuộc. Nhi bỉ đại hải bổn tánh như cố. Chư long, quỷ, thần, a-tu-la đẳng bất giác bất tri kỷ chi sở nhập. Ư thử chúng sinh, diệc vô sở nhiễu.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, đoạn thủ tam thiên đại thiên thế giới như đào gia luân, trước hữu chưởng trung, trịch quá Hằng sa thế giới chi ngoại. Kỳ trung chúng sinh bất giác bất tri kỷ chi sở vãng. Hựu phục hoàn trí bổn xứ, đô bất sử nhân hữu vãng lai tưởng. Nhi thử thế giới bổn tướng như cố.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Hoặc hữu chúng sinh nhạo cửu trụ thế nhi khả độ giả, Bồ Tát tức diễn thất nhật dĩ vi nhất kiếp, linh bỉ chúng sinh vị chi nhất kiếp. Hoặc hữu chúng sinh bất nhạo cửu trụ nhi khả độ giả, Bồ Tát tức xúc nhất kiếp dĩ vi thất nhật, linh bỉ chúng sinh vị chi thất nhật.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, dĩ nhất thiết Phật độ nghiêm sức chi sự, tập tại nhất quốc, thị ư chúng sinh. Hựu, Bồ Tátnhất thiết Phật độ chúng sinh, trí chi hữu chưởng, phi đáo Thập phương, biến thị nhất thiết, nhi bất động bổn xứ.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Thập phương chúng sinh cúng dường chư Phật chi cụ, Bồ Tát ư nhất mao khổng, giai linh đắc kiến. Hựu, thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng, phổ sử kiến chi.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Thập phương thế giới sở hữu chư phong, Bồ Tát tất năng hấp trước khẩu trung, nhi thân vô tổn. Ngoại chư thọ mộc diệc bất tồi chiết.

Hựu, thập phương thế giới kiếp tận thiêu thời, dĩ nhất thiết hỏa nạp ư phúc trung, hỏa sự như cố, nhi bất vi hại. Hựu, ư hạ phương, quá Hằng hà sa đẳng chư Phật thế giới, thủ nhất Phật độ, cử trước thượng phương, quá Hằng hà vô số thế giới, như trì châm phong cử nhất táo diệp, nhi vô sở nhiễu.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, năng dĩ thần thông hiện tác Phật thân, hoặc hiện Bích chi Phật thân, hoặc hiện Thanh văn thân, hoặc hiện Đế-thích thân, hoặc hiện Phạm vương thân, hoặc hiện Thế chủ thân, hoặc hiện Chuyển luân Thánh vương thân. Hựu, thập phương thế giới sở hữu chúng thanh, thượng, trung, hạ âm, giai năng biến chi, linh tác Phật thanh, diễn xuất vô thường, khổ, không, vô ngã chi âm. Cập thập phương chư Phật sở thuyết chủng chủng chi pháp, giai ư kỳ trung, phổ linh đắc văn.

Xá-lỵ-phất! Ngã kim lược thuyết Bồ Tát Bất khả tư nghị giải thoát chi lực. Nhược quảng thuyết giả, cùng kiếp bất tận.

Thị thời, Đại Ca-diếp, văn thuyết Bồ Tát Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, thán vị tằng hữu, vị Xá-lỵ-phất: Thí như hữu nhân, ư manh giả tiền, hiện chúng sắc tượng, phi bỉ sở kiến. Nhất thiết Thanh văn, văn thị Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, bất năng giải liễu, vi nhược thử dã. Trí giả văn thị, kỳ thùy bất phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm? Ngã đẳng hà vi vĩnh tuyệt kỳ căn, ư thử Đại thừa, kỷ như bại chủng? Nhất thiết Thanh văn, văn thị Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, giai ưng hào khấp, thanh chấn tam thiên đại thiên thế giới! Nhất thiết Bồ Tát ưng đại hân khánh, đảnh thọ thử pháp! Nhược hữu Bồ Tát tín giải Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn giả, nhất thiết ma chúng vô như chi hà!

Đại Ca-diếp thuyết thử ngữ thời, tam vạn nhị thiên thiên tử giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.

Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Đại Ca-diếp: Nhân giả! Thập phương vô lượng a-tăng-kỳ thế giới trung, tác ma vương giả, đa thị trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát. Dĩ phương tiện lực cố giáo hóa chúng sinh, hiện tác ma vương.

Hựu, Ca-diếp, thập phương vô lượng Bồ Tát, hoặc hữu nhân tùng khất: thủ túc nhĩ tỷ, đầu mục tủy não, huyết nhục bì cốt, tụ lạc thành ấp, thê tử nô tỳ, tượng mã xa thặng, kim ngân lưu ly, xa cừ mã não, san hô hổ phách, chân châu khoa bối, y phục ẩm thực. Như thử khất giả, đa thị trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát. Dĩ phương tiện lực nhi vãng thí chi, linh kỳ kiên cố. Sở dĩ giả hà? Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, hữu oai đức lực, cố hành bức bách, thị chư chúng sinh như thị nan sự. Phàm phu hạ liệt, vô hữu lực thế, bất năng như thị bức bách Bồ Tát. Thí như long tượng xúc đạp, phi lư sở kham. Thị danh trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát trí huệ phương tiện chi môn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10250)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12232)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12899)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52691)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21210)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10586)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12306)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25830)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16709)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13016)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12431)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11472)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20259)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18814)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19419)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12188)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13741)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14886)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13860)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15414)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11296)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17017)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14828)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13746)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11629)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14934)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14472)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18238)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11412)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15714)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18259)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant