Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Phật đạo phẩm - Đệ bát

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7594)
9. Phật đạo phẩm - Đệ bát

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN TRUNG

Phật đạo phẩm - Đệ bát

佛 道 品
第 八


爾時文殊師利問維摩詰言。菩薩云何通達佛道。
維摩詰言。若菩薩行於非道。是為通達佛道。
又問。云何菩薩行於非道。
答曰。若菩薩行五無間而無惱恚。至於地獄無諸罪垢。至於畜生無有無明憍慢等過。至於餓鬼而具足功德。
行色無色界道不以為勝。示行貪欲離諸染著。示行瞋恚於諸衆生無有恚閡。示行愚癡而以智慧調伏其心。示行慳貪而捨內外所有不惜身命。示行毀禁而安住淨戒。乃 至小罪猶懷大懼。示行瞋恚而常慈忍。示行懈怠而懃修功德。示行亂意而常念定。示行愚癡而通達世間出世間慧。示行諂偽而善方便隨諸經義。示行憍慢而於衆生猶 如橋梁。示行諸煩惱而心常清淨。示入於魔而順佛智慧不隨他教。示入聲聞而為衆生說未聞法。示入辟支佛而成就大悲教化衆生。
示入貧窮而有寶手功德無盡。示入刑殘而具諸相好以自莊嚴。示入下賤而生佛種姓中具諸功德。示入羸劣醜陋而得那羅延身。一切衆生之所樂見。示入老病而永斷病 根超越死畏。示有資生而恒觀無常實無所貪。示有妻妾婇女而常遠離五欲淤泥。現於訥鈍而成就辯才總持無失。示入邪濟而以正濟度諸衆生。現遍入諸道而斷其因 緣。現於涅槃而不斷生死。
文殊師利。菩薩能如是行於非道。是為通達佛道。
於是維摩詰問文殊師利。何等為如來種。
文殊師利言。有身為種。無明有愛為種。貪恚癡為種。四顛倒為種。五蓋為種。六入為種。七識處為種。八邪法為種。九惱處為種。十不善道為種。以要言之。六十二見及一切煩惱皆是佛種。
曰。何謂也。
答曰。若見無為入正位者。不能復發阿耨多羅三藐三菩提心。譬如高原陸地不生蓮華。卑濕淤泥乃生此華。如是見無為法入正位者。終不復能生於佛法。煩惱泥中乃有衆生起佛法耳。
又如殖種於空終不得生。糞壤之地乃能滋茂。如是入無為正位者不生佛法。起於我見如須彌山。猶能發於阿耨多羅三藐三菩提心生佛法矣。是故當知一切煩惱為如來種。譬如不下巨海不能得無價寶珠。如是不入煩惱大海。則不能得一切智寶。
爾時大迦葉歎言。善哉善哉文殊師利。快說此語誠如所言。塵勞之疇為如來種。我等今者不復堪任發阿耨多羅三藐三菩提心。乃至五無間罪。猶能發意生於佛法。而今我等永不能發。譬如根敗之士其於五欲不能復利。如是聲聞諸結斷者。於佛法中無所復益永不志願。
是故文殊師利。凡夫於佛法有返復。而聲聞無也。所以者何。凡夫聞佛法能起無上道心不斷三寶。正使聲聞終身聞佛法力無畏等。永不能發無上道意。
爾時會中有菩薩名普現色身。問維摩詰言。居士。父母妻子親戚眷屬吏民知識悉為是誰。奴婢僮僕象馬車乘皆何所在。
於是維摩詰以偈答曰 。
智度菩薩母
方便以為父 
一切衆導師
無不由是生。 
法喜以為妻
慈悲心為女 
善心誠實男
畢竟空寂舍 。
弟子衆塵勞
隨意之所轉 
道品善知識
由是成正覺。
諸度法等侶
四攝為伎女 
歌詠誦法言
以此為音樂。
總持之園苑
無漏法林樹 
覺意淨妙華
解脫智慧菓。
八解之浴池
定水湛然滿 
布以七淨華
浴此無垢人。
象馬五通馳
大乘以為車 
調御以一心
遊於八正路。
相具以嚴容
衆好飾其姿 
慚愧之上服
深心為華鬘。
富有七財寶
教授以滋息 
如所說修行
迴向為大利。
四禪為林座
從於淨命生 
多聞增智慧
以為自覺音。
甘露法之食
解脫味為漿 
淨心以澡浴
戒品為塗香。
摧滅煩惱賊
勇健無能踰 
降伏四種魔
勝幡建道場。
雖知無起滅
示彼故有生 
悉現諸國土
如日無不見。
供養於十方
無量億如來 
諸佛及己身
無有分別想。
雖知諸佛國
及與衆生空 
而常修淨土
教化於群生。
諸有衆生類
形聲及威儀 
無畏力菩薩
一時能盡現。
覺知衆魔事
而示隨其行 
以善方便智
隨意能皆現。
或示老病死
成就諸群生 
了知如幻化
通達無有礙。
或現劫盡燒
天地皆洞然 
衆人有常想
照令知無常。
無數億衆生
俱來請菩薩 
一時到其舍
化令向佛道。
經書禁咒術
工巧諸伎藝 
盡現行此事
饒益諸群生。
世間衆道法
悉於中出家 
因以解人惑
而不墮邪見。
或作日月天
梵王世界主 
或時作地水
或復作風火。
劫中有疾疫
現作諸藥草 
若有服之者
除病消衆毒。
劫中有饑饉
現身作飲食 
先救彼饑渴
卻以法語人。
劫中有刀兵
為之起慈心 
化彼諸衆生
令住無諍地。
若有大戰陣
立之以等力 
菩薩現威勢
降伏使和安。
一切國土中
諸有地獄處 
輒往到於彼
勉濟其苦惱。
一切國土中
畜生相食噉 
皆現生於彼
為之作利益。
示受於五欲
亦復現行禪 
令魔心憒亂
不能得其便。
火中生蓮華
是可謂希有 
在欲而行禪
希有亦如是。
或現作婬女
引諸好色者 
先以欲鉤牽
後令入佛智。
或為邑中主
或作商人導 
國師及大臣
以祐利衆生。
諸有貧窮者
現作無盡藏 
因以勸導之
令發菩提心。
我心憍慢者
為現大力士 
消伏諸貢高
令住無上道。
其有恐懼衆
居前而慰安 
先施以無畏
後令發道心。
或現離婬欲
為五通仙人 
開導諸群生
令住戒忍慈。
見須供事者
現為作僮僕 
既悅可其意
乃發以道心。
隨彼之所須
得入於佛道 
以善方便力
皆能給足之。
如是道無量
所行無有涯 
智慧無邊際
度脫無數衆。
假令一切佛
於無數億劫
讚歎其功德
猶尚不能盡。
誰聞如是法
不發菩提心 
除彼不肖人
癡冥無智者。


Phật Đạo Phẩm
Đệ bát

Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi vấn Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát vân hà thông đạt Phật đạo?
Duy-ma-cật ngôn: Nhược Bồ Tát hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.
Hựu vấn: Vân hà Bồ Tát hành ư phi đạo?
Đáp viết: Nhược Bồ Tát hành ngũ vô gián, nhi vô não nhuế. Chí ư địa ngục, vô chư tội cấu. Chí ư súc sinh, vô hữu vô minh kiêu mạn đẳng quá. Chí ư ngạ quỷ, nhi cụ túc công đức.
Hành sắc, vô sắc giới đạo, bất dĩ vi thắng. Thị hành tham dục, ly chư nhiễm trước. Thị hành sân nhuế, ư chư chúng sinh, vô hữu nhuế ngại. Thị hành ngu si, nhi dĩ trí huệ điều phục kỳ tâm. Thị hành khan tham, nhi xả nội ngoại sở hữu, bất tích thân mạng. Thị hành hủy cấm, nhi an trụ tịnh giới, nãi chí tiểu tội, du hoài đại cụ. Thị hành sân nhuế, nhi thường từ, nhẫn. Thị hành giải đãi, nhi cần tu công đức. Thị hành loạn ý, nhi thường niệm định. Thị hành ngu si, nhi thông đạt thế gian, xuất thế gian huệ. Thị hành siểm ngụy, nhi thiện phương tiện, tùy chư kinh nghĩa. Thị hành kiêu mạn, nhi ư chúng sinh, du như kiều lương. Thị hành chư phiền não, nhi tâm thường thanh tịnh. Thị nhập ư ma, nhi thuận Phật Trí huệ, bất tùy tha giáo. Thị nhập Thanh văn, nhi vị chúng sinh thuyết vị văn pháp. Thị nhập Bích chi Phật, nhi thành tựu đại bi, giáo hóa chúng sinh.
Thị nhập bần cùng, nhi hữu bảo thủ, công đức vô tận. Thị nhập hình tàn, nhị cụ chư tướng hảo dĩ tự trang nghiêm. Thị nhập hạ tiện, nhi sinh Phật chủng tánh trung, cụ chư công đức. Thị nhập luy liệt xú lậu, nhi đắc Na-la-diên thân, nhất thiết chúng sinh chi sở nhạo kiến. Thị nhập lão bệnh, nhi vĩnh đoạn bệnh căn, siêu việt tử úy. Thị hữu tư sinh, nhi hằng quán vô thường, thật vô sở tham. Thị hữu thê thiếp thể nữ, nhi thường viễn ly ngũ dục ứ nê. Hiện ư nột độn, nhi thành tựu biện tài, tổng trì vô thất. Thị nhập tà tế, nhi dĩ chánh tế độ chư chúng sinh. Hiện biến nhập chư đạo, nhi đoạn kỳ nhân duyên. Hiện ư Niết-bàn, nhi bất đoạn sinh tử.
Văn-thù-sư-lợi! Bồ Tát năng như thị hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.
Ư thị, Duy-ma-cật vấn Văn-thù-sư-lợi: Hà đẳng vị Như Lai chủng?
Văn-thù-sư-lợi ngôn: Hữu thân vi chủng. Vô minh hữu ái vi chủng. Tham, nhuế, si vi chủng. Tứ điên đảo vi chủng. Ngũ cái vi chủng. Lục nhập vi chủng. Thất thức xứ vi chủng. Bát tà pháp vi chủng. Cửu não xứ vi chủng. Thập bất thiện đạo vi chủng. Dĩ yếu ngôn chi, lục thập nhị kiến cập nhất thiết phiền não giai thị Phật chủng.
Viết: Hà vị dã?
Đáp viết: Nhược kiến vô vi nhập chánh vị giả, bất năng phục phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Thí như cao nguyên lục địa, bất sinh liên hoa. Ty thấp ứ nê, nãi sinh thử hoa. Như thị kiến vô vi pháp nhập chánh vị giả, chung bất phục năng sinh ư Phật pháp. Phiền não nê trung, nãi hữu chúng sinh khởi Phật pháp nhĩ.
Hựu như thực chủng ư không, chung bất đắc sinh. Phấn nhưỡng chi địa, nãi năng tư mậu. Như thị nhập vô vi chánh vị giả, bất sinh Phật pháp. Khởi ư ngã kiến như Tu-di sơn, du năng phát ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, sinh Phật pháp hỷ. Thị cố đương tri nhất thiết phiền não vi Như Lai chủng. Thí như bất há cự hải, bất năng đắc vô giá bảo châu. Như thị, bất nhập phiền não đại hải, tắc bất năng đắc nhất thiết trí bảo.
Nhĩ thời, Đại Ca-diếp thán ngôn: Thiện tai, thiện tai! Văn-thù-sư-lợi! Khoái thuyết thử ngữ! Thành như sở ngôn. Trần lao chi trù vi Như Lai chủng. Ngã đẳng kim giả bất phục kham nhiệm phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Nãi chí ngũ vô gián tội du năng phát ý sinh ư Phật pháp. Nhi kim ngã đẳng vĩnh bất năng phát! Thí như căn bại chi sĩ, kỳ ư ngũ dục, bất năng phục lợi! Như thị, Thanh văn chư kết đoạn giả, ư Phật pháp trung, vô sở phục ích, vĩnh bất chí nguyện!
Thị cố, Văn-thù-sư-lợi! Phàm phu ư Phật pháp, hữu phản phục. Nhi Thanh văn vô dã. Sở dĩ giả hà? Phàm phu văn Phật pháp, năng khởi vô thượng đạo tâm, bất đoạn Tam bảo. Chánh sử Thanh văn chung thân văn Phật pháp, lực, vô úy đẳng, vĩnh bất năng phát vô thượng đạo ý.
Nhĩ thời, Hội trung, hữu Bồ Tát, danh Phổ Hiện Sắc Thân, vấn Duy-ma-cật ngôn: Cư sĩ! Phụ mẫu thê tử, thân thích quyến thuộc, lại dân tri thức, tất vi thị thùy? Nô tỳ đồng bộc, tượng mã xa thặng, giai hà sở tại?
Ư thị, Duy-ma-cật dĩ kệ đáp viết:
Trí độ: Bồ Tát mẫu,
Phương tiện dĩ vi phụ,
Nhất thiết chúng: đạo sư,
Vô bất do thị sinh.
Pháp hỷ dĩ vi thê,
Từ bi tâm vi nữ,
Thiện tâm thành thật nam,
Tất cánh không tịch xá.
Đệ tử chúng trần lao,
Tùy ý chi sở chuyển.
Đạo phẩm thiện tri thức,
Do thị thành chánh giác.
Chư độ pháp đẳng lữ,
Tứ nhiếp vi kỹ nữ,
Ca vịnh tụng pháp ngôn,
Dĩ thử vi âm nhạc.
Tổng trì chi viên uyển,
Vô lậu pháp lâm thọ,
Giác ý tịnh diệu hoa,
Giải thoát trí huệ quả.
Bát giải chi dục trì,
Định thủy trạm nhiên mãn,
Bố dĩ thất tịnh hoa,
Dục thử vô cấu nhân.
Tượng mã ngũ thông trì,
Đại thừa dĩ vi xa,
Điều ngựnhất tâm,
Du ư bát chánh lộ.
Tướng cụ dĩ nghiêm dung,
Chúng hảo sức kỳ tư,
Tàm quý chi thượng phục,
Thâm tâm vi hoa man.
Phú hữu thất tài bảo,
Giáo thọ dĩ tư tức,
Như sở thuyết tu hành,
Hồi hướng vi đại lợi.
Tứ thiền vi lâm tòa,
Tùng ư tịnh mạng sinh,
Đa văn tăng trí huệ,
Dĩ vi tự giác âm.
Cam-lộ pháp chi thực,
Giải thoát vị vi tương,
Tịnh tâm dĩ tảo dục,
Giới phẩm vi đồ hương.
Tồi diệt phiền não tặc,
Dũng kiện vô năng du,
Hàng phục tứ chủng ma,
Thắng phan kiến đạo tràng.
Tuy tri vô khởi diệt,
Thị bỉ cố hữu sinh,
Tất hiện chư quốc độ,
Như nhật vô bất kiến.
Cúng dường ư thập phương,
Vô lượng ức Như Lai.
Chư Phật cập kỷ thân,
Vô hữu phân biệt tưởng.
Tuy tri chư Phật quốc,
Cập dữ chúng sinh không,
Nhi thường tu tịnh độ,
Giáo hóa ư quần sinh.
Chư hữu chúng sinh loại,
Hình, thanh cập oai nghi,
Vô úy lực Bồ Tát,
Nhất thời năng tận hiện.
Giác tri chúng ma sự,
Nhi thị tùy kỳ hạnh.
Dĩ thiện phương tiện trí,
Tùy ý năng giai hiện.
Hoặc thị lão, bệnh, tử,
Thành tựu chư quần sinh,
Liễu tri như ảo hóa,
Thông đạt vô hữu ngại.
Hoặc hiện kiếp tận thiêu,
Thiên địa giai đỗng nhiên,
Chúng nhân hữu thường tưởng,
Chiếu linh tri vô thường.
Vô số ức chúng sinh,
Câu lai thỉnh Bồ Tát,
Nhất thời đáo kỳ xá,
Hóa linh hướng Phật đạo.
Kinh thơ, cấm, chú thuật,
Công xảo chư kỹ nghệ,
Tận hiện hành thử sự,
Nhiêu ích chư quần sinh.
Thế gian chúng đạo pháp,
Tất ư trung xuất gia,
Nhân dĩ giải nhân hoặc,
Nhi bất đọa tà kiến.
Hoặc tác nhật nguyệt thiên,
Phạm vương thế giới chủ,
Hoặc thời tác địa, thủy,
Hoặc phục tác phong, hỏa.
Kiếp trung hữu tật dịch,
Hiện tác chư dược thảo,
Nhược hữu phục chi giả,
Trừ bệnh tiêu chúng độc.
Kiếp trung hữu cơ cẩn,
Hiện thân tác ẩm thực,
Tiên cứu bỉ cơ khát,
Khước dĩ pháp ngứ nhân.
Kiếp trung hữu đao binh,
Vị chi khởi từ bi,
Hóa bỉ chư chúng sinh,
Linh trụ vô tranh địa.
Nhược hữu đại chiến trận,
Lập chi dĩ đẳng lực,
Bồ Tát hiện oai thế,
Hàng phục sử hòa an.
Nhất thiết quốc độ trung,
Chư hữu địa ngục xứ,
Triếp vãng đáo ư bỉ,
Miễn tế kỳ khổ não.
Nhất thiết quốc độ trung,
Súc sinh tương thực hám,
Giai hiện sinh ư bỉ,
Vị chi tác lợi ích.
Thị thọ ư ngũ dục,
Diệc phục hiện hành thiền,
Linh ma tâm hội loạn,
Bất năng đắc kỳ tiện.
Hỏa trung sinh liên hoa,
Thị khả vị hy hữu,
Tại dục nhi hành thiền,
Hy hữu diệc như thị.
Hoặc hiện tác dâm nữ,
Dẫn chư háo sắc giả,
Tiên dĩ dục câu khiên,
Hậu linh nhập Phật trí.
Hoặc vi ấp trung chủ,
Hoặc tác thương nhân đạo,
Quốc sư cập đại thần,
Dĩ hữu lợi chúng sinh.
Chư hữu bần cùng giả,
Hiện tác vô tận tạng,
Nhân dĩ khuyến đạo chi,
Linh phát Bồ-đề tâm.
Ngã tâm kiêu mạn giả,
Vị hiện đại lực sĩ,
Tiêu phục chư cống cao,
Linh trụ vô thượng đạo.
Kỳ hữu khủng cụ chúng,
Cư tiền nhi ủy an,
Tiên thí dĩ vô úy,
Hậu linh phát đạo tâm.
Hoặc hiện ly dâm dục,
Vi ngũ thông tiên nhân,
Khai đạo chư quần sinh,
Linh trụ giới, nhẫn, từ.
Kiến tu cung sự giả,
Hiện vị tác đồng bộc,
Ký duyệt khả kỳ ý,
Nãi phát dĩ đạo tâm.
Tùy bỉ chi sở tu,
Đắc nhập ư Phật đạo,
Dĩ thiện phương tiện lực,
Giai năng cấp túc chi.
Như thị đạo vô lượng,
Sở hành vô hữu nhai,
Trí huệ vô biên tế,
Độ thoát vô số chúng.
Giả linh nhất thiết Phật,
Ư vô số ức kiếp,
Tán thán kỳ công đức,
Du thượng bất năng tận.
Thùy văn như thị pháp,
Bất phát Bồ-đề tâm?
Trừ bỉ bất tiếu nhân,
Si minh vô trí giả.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11118)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10770)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17988)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11730)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9953)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10172)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15347)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11246)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14333)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12100)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15372)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12005)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11187)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10619)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14845)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12692)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16581)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19673)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12270)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11856)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10908)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13530)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11958)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11847)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11642)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12616)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13629)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12899)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11169)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13054)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12220)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19706)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14156)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24612)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10694)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant