Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

9. Phật đạo phẩm - Đệ bát

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7508)
9. Phật đạo phẩm - Đệ bát

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN TRUNG

Phật đạo phẩm - Đệ bát

佛 道 品
第 八


爾時文殊師利問維摩詰言。菩薩云何通達佛道。
維摩詰言。若菩薩行於非道。是為通達佛道。
又問。云何菩薩行於非道。
答曰。若菩薩行五無間而無惱恚。至於地獄無諸罪垢。至於畜生無有無明憍慢等過。至於餓鬼而具足功德。
行色無色界道不以為勝。示行貪欲離諸染著。示行瞋恚於諸衆生無有恚閡。示行愚癡而以智慧調伏其心。示行慳貪而捨內外所有不惜身命。示行毀禁而安住淨戒。乃 至小罪猶懷大懼。示行瞋恚而常慈忍。示行懈怠而懃修功德。示行亂意而常念定。示行愚癡而通達世間出世間慧。示行諂偽而善方便隨諸經義。示行憍慢而於衆生猶 如橋梁。示行諸煩惱而心常清淨。示入於魔而順佛智慧不隨他教。示入聲聞而為衆生說未聞法。示入辟支佛而成就大悲教化衆生。
示入貧窮而有寶手功德無盡。示入刑殘而具諸相好以自莊嚴。示入下賤而生佛種姓中具諸功德。示入羸劣醜陋而得那羅延身。一切衆生之所樂見。示入老病而永斷病 根超越死畏。示有資生而恒觀無常實無所貪。示有妻妾婇女而常遠離五欲淤泥。現於訥鈍而成就辯才總持無失。示入邪濟而以正濟度諸衆生。現遍入諸道而斷其因 緣。現於涅槃而不斷生死。
文殊師利。菩薩能如是行於非道。是為通達佛道。
於是維摩詰問文殊師利。何等為如來種。
文殊師利言。有身為種。無明有愛為種。貪恚癡為種。四顛倒為種。五蓋為種。六入為種。七識處為種。八邪法為種。九惱處為種。十不善道為種。以要言之。六十二見及一切煩惱皆是佛種。
曰。何謂也。
答曰。若見無為入正位者。不能復發阿耨多羅三藐三菩提心。譬如高原陸地不生蓮華。卑濕淤泥乃生此華。如是見無為法入正位者。終不復能生於佛法。煩惱泥中乃有衆生起佛法耳。
又如殖種於空終不得生。糞壤之地乃能滋茂。如是入無為正位者不生佛法。起於我見如須彌山。猶能發於阿耨多羅三藐三菩提心生佛法矣。是故當知一切煩惱為如來種。譬如不下巨海不能得無價寶珠。如是不入煩惱大海。則不能得一切智寶。
爾時大迦葉歎言。善哉善哉文殊師利。快說此語誠如所言。塵勞之疇為如來種。我等今者不復堪任發阿耨多羅三藐三菩提心。乃至五無間罪。猶能發意生於佛法。而今我等永不能發。譬如根敗之士其於五欲不能復利。如是聲聞諸結斷者。於佛法中無所復益永不志願。
是故文殊師利。凡夫於佛法有返復。而聲聞無也。所以者何。凡夫聞佛法能起無上道心不斷三寶。正使聲聞終身聞佛法力無畏等。永不能發無上道意。
爾時會中有菩薩名普現色身。問維摩詰言。居士。父母妻子親戚眷屬吏民知識悉為是誰。奴婢僮僕象馬車乘皆何所在。
於是維摩詰以偈答曰 。
智度菩薩母
方便以為父 
一切衆導師
無不由是生。 
法喜以為妻
慈悲心為女 
善心誠實男
畢竟空寂舍 。
弟子衆塵勞
隨意之所轉 
道品善知識
由是成正覺。
諸度法等侶
四攝為伎女 
歌詠誦法言
以此為音樂。
總持之園苑
無漏法林樹 
覺意淨妙華
解脫智慧菓。
八解之浴池
定水湛然滿 
布以七淨華
浴此無垢人。
象馬五通馳
大乘以為車 
調御以一心
遊於八正路。
相具以嚴容
衆好飾其姿 
慚愧之上服
深心為華鬘。
富有七財寶
教授以滋息 
如所說修行
迴向為大利。
四禪為林座
從於淨命生 
多聞增智慧
以為自覺音。
甘露法之食
解脫味為漿 
淨心以澡浴
戒品為塗香。
摧滅煩惱賊
勇健無能踰 
降伏四種魔
勝幡建道場。
雖知無起滅
示彼故有生 
悉現諸國土
如日無不見。
供養於十方
無量億如來 
諸佛及己身
無有分別想。
雖知諸佛國
及與衆生空 
而常修淨土
教化於群生。
諸有衆生類
形聲及威儀 
無畏力菩薩
一時能盡現。
覺知衆魔事
而示隨其行 
以善方便智
隨意能皆現。
或示老病死
成就諸群生 
了知如幻化
通達無有礙。
或現劫盡燒
天地皆洞然 
衆人有常想
照令知無常。
無數億衆生
俱來請菩薩 
一時到其舍
化令向佛道。
經書禁咒術
工巧諸伎藝 
盡現行此事
饒益諸群生。
世間衆道法
悉於中出家 
因以解人惑
而不墮邪見。
或作日月天
梵王世界主 
或時作地水
或復作風火。
劫中有疾疫
現作諸藥草 
若有服之者
除病消衆毒。
劫中有饑饉
現身作飲食 
先救彼饑渴
卻以法語人。
劫中有刀兵
為之起慈心 
化彼諸衆生
令住無諍地。
若有大戰陣
立之以等力 
菩薩現威勢
降伏使和安。
一切國土中
諸有地獄處 
輒往到於彼
勉濟其苦惱。
一切國土中
畜生相食噉 
皆現生於彼
為之作利益。
示受於五欲
亦復現行禪 
令魔心憒亂
不能得其便。
火中生蓮華
是可謂希有 
在欲而行禪
希有亦如是。
或現作婬女
引諸好色者 
先以欲鉤牽
後令入佛智。
或為邑中主
或作商人導 
國師及大臣
以祐利衆生。
諸有貧窮者
現作無盡藏 
因以勸導之
令發菩提心。
我心憍慢者
為現大力士 
消伏諸貢高
令住無上道。
其有恐懼衆
居前而慰安 
先施以無畏
後令發道心。
或現離婬欲
為五通仙人 
開導諸群生
令住戒忍慈。
見須供事者
現為作僮僕 
既悅可其意
乃發以道心。
隨彼之所須
得入於佛道 
以善方便力
皆能給足之。
如是道無量
所行無有涯 
智慧無邊際
度脫無數衆。
假令一切佛
於無數億劫
讚歎其功德
猶尚不能盡。
誰聞如是法
不發菩提心 
除彼不肖人
癡冥無智者。


Phật Đạo Phẩm
Đệ bát

Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi vấn Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát vân hà thông đạt Phật đạo?
Duy-ma-cật ngôn: Nhược Bồ Tát hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.
Hựu vấn: Vân hà Bồ Tát hành ư phi đạo?
Đáp viết: Nhược Bồ Tát hành ngũ vô gián, nhi vô não nhuế. Chí ư địa ngục, vô chư tội cấu. Chí ư súc sinh, vô hữu vô minh kiêu mạn đẳng quá. Chí ư ngạ quỷ, nhi cụ túc công đức.
Hành sắc, vô sắc giới đạo, bất dĩ vi thắng. Thị hành tham dục, ly chư nhiễm trước. Thị hành sân nhuế, ư chư chúng sinh, vô hữu nhuế ngại. Thị hành ngu si, nhi dĩ trí huệ điều phục kỳ tâm. Thị hành khan tham, nhi xả nội ngoại sở hữu, bất tích thân mạng. Thị hành hủy cấm, nhi an trụ tịnh giới, nãi chí tiểu tội, du hoài đại cụ. Thị hành sân nhuế, nhi thường từ, nhẫn. Thị hành giải đãi, nhi cần tu công đức. Thị hành loạn ý, nhi thường niệm định. Thị hành ngu si, nhi thông đạt thế gian, xuất thế gian huệ. Thị hành siểm ngụy, nhi thiện phương tiện, tùy chư kinh nghĩa. Thị hành kiêu mạn, nhi ư chúng sinh, du như kiều lương. Thị hành chư phiền não, nhi tâm thường thanh tịnh. Thị nhập ư ma, nhi thuận Phật Trí huệ, bất tùy tha giáo. Thị nhập Thanh văn, nhi vị chúng sinh thuyết vị văn pháp. Thị nhập Bích chi Phật, nhi thành tựu đại bi, giáo hóa chúng sinh.
Thị nhập bần cùng, nhi hữu bảo thủ, công đức vô tận. Thị nhập hình tàn, nhị cụ chư tướng hảo dĩ tự trang nghiêm. Thị nhập hạ tiện, nhi sinh Phật chủng tánh trung, cụ chư công đức. Thị nhập luy liệt xú lậu, nhi đắc Na-la-diên thân, nhất thiết chúng sinh chi sở nhạo kiến. Thị nhập lão bệnh, nhi vĩnh đoạn bệnh căn, siêu việt tử úy. Thị hữu tư sinh, nhi hằng quán vô thường, thật vô sở tham. Thị hữu thê thiếp thể nữ, nhi thường viễn ly ngũ dục ứ nê. Hiện ư nột độn, nhi thành tựu biện tài, tổng trì vô thất. Thị nhập tà tế, nhi dĩ chánh tế độ chư chúng sinh. Hiện biến nhập chư đạo, nhi đoạn kỳ nhân duyên. Hiện ư Niết-bàn, nhi bất đoạn sinh tử.
Văn-thù-sư-lợi! Bồ Tát năng như thị hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.
Ư thị, Duy-ma-cật vấn Văn-thù-sư-lợi: Hà đẳng vị Như Lai chủng?
Văn-thù-sư-lợi ngôn: Hữu thân vi chủng. Vô minh hữu ái vi chủng. Tham, nhuế, si vi chủng. Tứ điên đảo vi chủng. Ngũ cái vi chủng. Lục nhập vi chủng. Thất thức xứ vi chủng. Bát tà pháp vi chủng. Cửu não xứ vi chủng. Thập bất thiện đạo vi chủng. Dĩ yếu ngôn chi, lục thập nhị kiến cập nhất thiết phiền não giai thị Phật chủng.
Viết: Hà vị dã?
Đáp viết: Nhược kiến vô vi nhập chánh vị giả, bất năng phục phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Thí như cao nguyên lục địa, bất sinh liên hoa. Ty thấp ứ nê, nãi sinh thử hoa. Như thị kiến vô vi pháp nhập chánh vị giả, chung bất phục năng sinh ư Phật pháp. Phiền não nê trung, nãi hữu chúng sinh khởi Phật pháp nhĩ.
Hựu như thực chủng ư không, chung bất đắc sinh. Phấn nhưỡng chi địa, nãi năng tư mậu. Như thị nhập vô vi chánh vị giả, bất sinh Phật pháp. Khởi ư ngã kiến như Tu-di sơn, du năng phát ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, sinh Phật pháp hỷ. Thị cố đương tri nhất thiết phiền não vi Như Lai chủng. Thí như bất há cự hải, bất năng đắc vô giá bảo châu. Như thị, bất nhập phiền não đại hải, tắc bất năng đắc nhất thiết trí bảo.
Nhĩ thời, Đại Ca-diếp thán ngôn: Thiện tai, thiện tai! Văn-thù-sư-lợi! Khoái thuyết thử ngữ! Thành như sở ngôn. Trần lao chi trù vi Như Lai chủng. Ngã đẳng kim giả bất phục kham nhiệm phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Nãi chí ngũ vô gián tội du năng phát ý sinh ư Phật pháp. Nhi kim ngã đẳng vĩnh bất năng phát! Thí như căn bại chi sĩ, kỳ ư ngũ dục, bất năng phục lợi! Như thị, Thanh văn chư kết đoạn giả, ư Phật pháp trung, vô sở phục ích, vĩnh bất chí nguyện!
Thị cố, Văn-thù-sư-lợi! Phàm phu ư Phật pháp, hữu phản phục. Nhi Thanh văn vô dã. Sở dĩ giả hà? Phàm phu văn Phật pháp, năng khởi vô thượng đạo tâm, bất đoạn Tam bảo. Chánh sử Thanh văn chung thân văn Phật pháp, lực, vô úy đẳng, vĩnh bất năng phát vô thượng đạo ý.
Nhĩ thời, Hội trung, hữu Bồ Tát, danh Phổ Hiện Sắc Thân, vấn Duy-ma-cật ngôn: Cư sĩ! Phụ mẫu thê tử, thân thích quyến thuộc, lại dân tri thức, tất vi thị thùy? Nô tỳ đồng bộc, tượng mã xa thặng, giai hà sở tại?
Ư thị, Duy-ma-cật dĩ kệ đáp viết:
Trí độ: Bồ Tát mẫu,
Phương tiện dĩ vi phụ,
Nhất thiết chúng: đạo sư,
Vô bất do thị sinh.
Pháp hỷ dĩ vi thê,
Từ bi tâm vi nữ,
Thiện tâm thành thật nam,
Tất cánh không tịch xá.
Đệ tử chúng trần lao,
Tùy ý chi sở chuyển.
Đạo phẩm thiện tri thức,
Do thị thành chánh giác.
Chư độ pháp đẳng lữ,
Tứ nhiếp vi kỹ nữ,
Ca vịnh tụng pháp ngôn,
Dĩ thử vi âm nhạc.
Tổng trì chi viên uyển,
Vô lậu pháp lâm thọ,
Giác ý tịnh diệu hoa,
Giải thoát trí huệ quả.
Bát giải chi dục trì,
Định thủy trạm nhiên mãn,
Bố dĩ thất tịnh hoa,
Dục thử vô cấu nhân.
Tượng mã ngũ thông trì,
Đại thừa dĩ vi xa,
Điều ngựnhất tâm,
Du ư bát chánh lộ.
Tướng cụ dĩ nghiêm dung,
Chúng hảo sức kỳ tư,
Tàm quý chi thượng phục,
Thâm tâm vi hoa man.
Phú hữu thất tài bảo,
Giáo thọ dĩ tư tức,
Như sở thuyết tu hành,
Hồi hướng vi đại lợi.
Tứ thiền vi lâm tòa,
Tùng ư tịnh mạng sinh,
Đa văn tăng trí huệ,
Dĩ vi tự giác âm.
Cam-lộ pháp chi thực,
Giải thoát vị vi tương,
Tịnh tâm dĩ tảo dục,
Giới phẩm vi đồ hương.
Tồi diệt phiền não tặc,
Dũng kiện vô năng du,
Hàng phục tứ chủng ma,
Thắng phan kiến đạo tràng.
Tuy tri vô khởi diệt,
Thị bỉ cố hữu sinh,
Tất hiện chư quốc độ,
Như nhật vô bất kiến.
Cúng dường ư thập phương,
Vô lượng ức Như Lai.
Chư Phật cập kỷ thân,
Vô hữu phân biệt tưởng.
Tuy tri chư Phật quốc,
Cập dữ chúng sinh không,
Nhi thường tu tịnh độ,
Giáo hóa ư quần sinh.
Chư hữu chúng sinh loại,
Hình, thanh cập oai nghi,
Vô úy lực Bồ Tát,
Nhất thời năng tận hiện.
Giác tri chúng ma sự,
Nhi thị tùy kỳ hạnh.
Dĩ thiện phương tiện trí,
Tùy ý năng giai hiện.
Hoặc thị lão, bệnh, tử,
Thành tựu chư quần sinh,
Liễu tri như ảo hóa,
Thông đạt vô hữu ngại.
Hoặc hiện kiếp tận thiêu,
Thiên địa giai đỗng nhiên,
Chúng nhân hữu thường tưởng,
Chiếu linh tri vô thường.
Vô số ức chúng sinh,
Câu lai thỉnh Bồ Tát,
Nhất thời đáo kỳ xá,
Hóa linh hướng Phật đạo.
Kinh thơ, cấm, chú thuật,
Công xảo chư kỹ nghệ,
Tận hiện hành thử sự,
Nhiêu ích chư quần sinh.
Thế gian chúng đạo pháp,
Tất ư trung xuất gia,
Nhân dĩ giải nhân hoặc,
Nhi bất đọa tà kiến.
Hoặc tác nhật nguyệt thiên,
Phạm vương thế giới chủ,
Hoặc thời tác địa, thủy,
Hoặc phục tác phong, hỏa.
Kiếp trung hữu tật dịch,
Hiện tác chư dược thảo,
Nhược hữu phục chi giả,
Trừ bệnh tiêu chúng độc.
Kiếp trung hữu cơ cẩn,
Hiện thân tác ẩm thực,
Tiên cứu bỉ cơ khát,
Khước dĩ pháp ngứ nhân.
Kiếp trung hữu đao binh,
Vị chi khởi từ bi,
Hóa bỉ chư chúng sinh,
Linh trụ vô tranh địa.
Nhược hữu đại chiến trận,
Lập chi dĩ đẳng lực,
Bồ Tát hiện oai thế,
Hàng phục sử hòa an.
Nhất thiết quốc độ trung,
Chư hữu địa ngục xứ,
Triếp vãng đáo ư bỉ,
Miễn tế kỳ khổ não.
Nhất thiết quốc độ trung,
Súc sinh tương thực hám,
Giai hiện sinh ư bỉ,
Vị chi tác lợi ích.
Thị thọ ư ngũ dục,
Diệc phục hiện hành thiền,
Linh ma tâm hội loạn,
Bất năng đắc kỳ tiện.
Hỏa trung sinh liên hoa,
Thị khả vị hy hữu,
Tại dục nhi hành thiền,
Hy hữu diệc như thị.
Hoặc hiện tác dâm nữ,
Dẫn chư háo sắc giả,
Tiên dĩ dục câu khiên,
Hậu linh nhập Phật trí.
Hoặc vi ấp trung chủ,
Hoặc tác thương nhân đạo,
Quốc sư cập đại thần,
Dĩ hữu lợi chúng sinh.
Chư hữu bần cùng giả,
Hiện tác vô tận tạng,
Nhân dĩ khuyến đạo chi,
Linh phát Bồ-đề tâm.
Ngã tâm kiêu mạn giả,
Vị hiện đại lực sĩ,
Tiêu phục chư cống cao,
Linh trụ vô thượng đạo.
Kỳ hữu khủng cụ chúng,
Cư tiền nhi ủy an,
Tiên thí dĩ vô úy,
Hậu linh phát đạo tâm.
Hoặc hiện ly dâm dục,
Vi ngũ thông tiên nhân,
Khai đạo chư quần sinh,
Linh trụ giới, nhẫn, từ.
Kiến tu cung sự giả,
Hiện vị tác đồng bộc,
Ký duyệt khả kỳ ý,
Nãi phát dĩ đạo tâm.
Tùy bỉ chi sở tu,
Đắc nhập ư Phật đạo,
Dĩ thiện phương tiện lực,
Giai năng cấp túc chi.
Như thị đạo vô lượng,
Sở hành vô hữu nhai,
Trí huệ vô biên tế,
Độ thoát vô số chúng.
Giả linh nhất thiết Phật,
Ư vô số ức kiếp,
Tán thán kỳ công đức,
Du thượng bất năng tận.
Thùy văn như thị pháp,
Bất phát Bồ-đề tâm?
Trừ bỉ bất tiếu nhân,
Si minh vô trí giả.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32581)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12572)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10585)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12521)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9117)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12614)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11939)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14854)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20532)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant