Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

14. Cúng dường pháp phẩm - Đệ thập tam

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7540)
14. Cúng dường pháp phẩm - Đệ thập tam

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN HẠ

Cúng dường pháp phẩm - Đệ thập tam

法供養品
第 十 三


爾時釋提桓因於大衆中白佛言。世尊。我雖從佛及文殊師利聞百千經。未曾聞此不可思議自在神通決定實相經典。如我解佛所說義趣。若有衆生聞此經法。信 解受持讀誦之者。必得是法不疑。何況如說修行。斯人則為閉衆惡趣開諸善門。常為諸佛之所護念。降伏外學摧滅魔怨。修治菩提安處道場。履踐如來所行之跡。
世尊。若有受持讀誦如說修行者。我當與諸眷屬供養給事。所在聚落城邑山林曠野有是經處。我亦與諸眷屬。聽受法故共到其所。其未信者當令生信。其已信者當為作護。
佛言。善哉善哉。天帝。如汝所說。吾助爾喜。此經廣說過去未來現在諸佛不可思議阿耨多羅三藐三菩提。
是故天帝。若善男子善女人。受持讀誦供養是經者則為供養去來今佛。
天帝。正使三千大千世界如來滿中。譬如甘蔗竹葦稻麻叢林。若有善男子善女人。或以一劫或減一劫。恭敬尊重讚歎供養奉諸所安。至諸佛滅後。以一一全身舍利起七寶塔。縱廣一四天下高至梵天表剎莊嚴。以一切華香瓔珞幢幡伎樂微妙第一。若一劫若減一劫而供養之。
天帝。於意云何。其人植福寧為多不。
釋提桓因言。甚多世尊。彼之福德若以百千億劫說不能盡。
佛告天帝。當知是善男子善女人。聞是不可思議解脫經典信解受持讀誦修行福多於彼。所以者何。諸佛菩提皆從是生。菩提之相不可限量。以是因緣福不可量。
佛告天帝。過去無量阿僧祇劫時。世有佛號曰藥王如來應供正遍知明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師佛世尊。世界名大莊嚴。劫名莊嚴。佛壽二十小劫。其聲聞僧三十六億那由他。菩薩僧有十二億。
天帝。是時有轉輪聖王名曰寶蓋。七寶具足主四天下。王有千子。端正勇健能伏怨敵。
爾時寶蓋與其眷屬供養藥王如來。施諸所安至滿五劫。過五劫已告其千子。汝等亦當如我以深心供養於佛。
於是千子受父王命。供養藥王如來。復滿五劫一切施安。其王一子名曰月蓋。獨坐思惟。寧有供養殊過此者。
以佛神力空中有天曰。善男子。法之供養勝諸供養。
即問。何謂法之供養。
天曰。汝可往問藥王如來。當廣為汝說法之供養。
即時月蓋王子行詣藥王如來稽首佛足。卻住一面白佛言。世尊。諸供養中法供養勝。云何名為法之供養。
佛言。善男子。法供養者。諸佛所說深經。一切世間難信難受。微妙難見清淨無染。非但分別思惟之所能得。菩薩法藏所攝。陀羅尼印印之。至不退轉成就六度。善 分別義順菩提法。衆經之上。入大慈悲。離衆魔事及諸邪見。順因緣法。無我無人無衆生無壽命。空無相無作無起。能令衆生坐於道場而轉法輪。諸天龍神乾闥婆等 所共歎譽。
能令衆生入佛法藏攝諸賢聖一切智慧。說衆菩薩所行之道。依於諸法實相之義。明宣無常苦空無我寂滅之法。能救一切毀禁衆生。諸魔外道及貪著者能使怖畏。諸佛 賢聖所共稱歎。背生死苦示涅槃樂。十方三世諸佛所說。若聞如是等經。信解受持讀誦。以方便力為諸衆生分別解說顯示分明。守護法故。是名法之供養。
又於諸法如說修行。隨順十二因緣。離諸邪見得無生忍。決定無我無有衆生。而於因緣果報。無違無諍離諸我所。依於義不依語。依於智不依識。依了義經不依不了 義經。依於法不依人。隨順法相無所入無所歸。無明畢竟滅故。諸行亦畢竟滅。乃至生畢竟滅故。老死亦畢竟滅。作如是觀。十二因緣無有盡相。不復起見。是名最 上法之供養。
佛告天帝。王子月蓋從藥王佛。聞如是法得柔順忍。即解寶衣嚴身之具。以供養佛白佛言。世尊。如來滅後我當行法供養守護正法。願以威神加哀建立。令我得降魔怨修菩薩行。
佛知其深心所念。而記之曰。汝於末後守護法城。
天帝。時王子月蓋見法清淨。聞佛授記以信出家。修集善法。精進不久得五神通。具菩薩道。得陀羅尼無斷辯才。於佛滅後以其所得神通總持辯才之力。滿十小劫藥 王如來所轉法輪隨而分布。月蓋比丘以守護法勤行精進。即於此身化百萬億人。於阿耨多羅三藐三菩提立不退轉。十四那由他人深發聲聞辟支佛心。無量衆生得生天 上。
天帝。時王寶蓋豈異人乎。今現得佛號寶燄如來。其王千子即賢劫中千佛是也。從迦羅鳩孫馱為始得佛。最後如來號曰樓至。月蓋比丘則我身是。如是天帝。當知此要。以法供養於諸供養為上為最。第一無比。
是故天帝。當以法之供養供養於佛。

Pháp Cúng Dường Phẩm
Đệ thập tam

Nhĩ thời, Thích-đề-hoàn-nhân, ư Đại chúng trung, bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã tuy tùng Phật cập Văn-thù-sư-lợi, văn bá thiên kinh, vị tằng văn thử Bất khả tư nghị tự tại thần thông quyết định thật tướng kinh điển. Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa thú, nhược hữu chúng sinh văn thử kinh pháp, tín giải, thọ trì, độc tụng chi giả, tất đắc thị pháp bất nghi. Hà huống như thuyết tu hành? Tư nhân tắc vi bế chúng ác thú, khai chư thiện môn, thường vi chư Phật chi sở hộ niệm, hàng phục ngoại học, tồi diệt ma oán, tu trị Bồ-đề, an xử đạo tràng, lý tiễn Như Lai sở hành chi tích.
Thế Tôn! Nhược hữu thọ trì, độc tụng, như thuyết tu hành giả, ngã đương dữ chư quyến thuộc cúng dường cấp sự. Sở tại tụ lạc, thành ấp, sơn lâm, khoáng dã, hữu thị kinh xử, ngã diệc dữ chư quyến thuộc, thính thọ pháp cố, cộng đáo kỳ sở. Kỳ vị tín giả, đương linh sinh tín. Kỳ dĩ tín giả, đương vị tác hộ.
Phật ngôn: Thiện tai, thiện tai! Thiên đế, như nhữ sở thuyết, ngô trợ nhĩ hỷ. Thử kinh quảng thuyết quá khứ, vị lại, hiện tại chư Phật bất khả tư nghị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Thị cố, Thiên đế! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì, độc tụng, cúng dường thị kinh giả, tắc vi cúng dường khứ, lai, kim Phật.
Thiên đế! Chánh sử tam thiên đại thiên thế giới, Như Lai mãn trung, thí như cam giá, trúc vĩ, đạo ma, tòng lâm. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc dĩ nhất kiếp, hoặc giảm nhất kiếp, cung kính tôn trọng, tán thán cúng dường, phụng chư sở an. Chí chư Phật diệt hậu, dĩ nhất nhất toàn thân xá-lỵ, khởi thất bảo tháp, túng quảng nhất tứ thiên hạ, cao chí Phạm thiên, biểu sát trang nghiêm, dĩ nhất thiết hoa hương, anh lạc, tràng phan, kỹ nhạc, vi diệu đệ nhất. Nhược nhất kiếp, nhược giảm nhất kiếp, nhi cúng dường chi.
Thiên đế! Ư ý vân hà? Kỳ nhân thực phước, ninh vi đa phủ?
Thích-đề-hoàn-nhân ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Bỉ chi phước đức, nhược dĩ bá thiên ức kiếp, thuyết bất năng tận.
Phật cáo Thiên đế: Đương tri thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị Bất khả tư nghị giải thoát kinh điển, tín giải, thọ trì, độc tụng, tu hành, phước đa ư bỉ. Sở dĩ giả hà? Chư Phật Bồ-đề giai tùng thử sinh. Bồ-đề chi tướng, Bất khả hạn lượng. Dĩ thị nhân duyên, phước bất khả lượng.
Phật cáo Thiên đế: Quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp thời, thế hữu Phật hiệu viết Dược vương, Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến Tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới danh Đại Trang Nghiêm. Kiếp danh Trang Nghiêm. Phật thọ nhị thập tiểu kiếp. Kỳ Thanh văn tăng, Tam thập lục ức na-do-tha. Bồ Tát tăng hữu thập nhị ức.
Thiên đế! Thị thời, hữu chuyển luân Thánh vương, danh viết Bảo Cái, thất bảo cụ túc, chủ tứ thiên hạ. Vương hữu thiên tử, đoan chánh, dũng kiện, năng phục oán địch.
Nhĩ thời, Bảo Cái dữ kỳ quyến thuộc cúng dường Dược Vương Như Lai, thi chư sở an, chí mãn ngũ kiếp. Quá ngũ kiếp dĩ, cáo kỳ Thiên tử: Nhữ đẳng diệc đương như ngã, dĩ thâm tâm cúng dường ư Phật.
Ư thị, thiên tử thọ phụ vương mạng, cúng dường Dược Vương Như Lai. Phục mãn ngũ kiếp, nhất thiết thi an. Kỳ vương nhất tử, danh viết Nguyệt Cái, độc tọa tư duy: Ninh hữu cúng dường thù quá thử giả?
Dĩ Phật thần lực, không trung hữu thiên viết: Thiện nam tử! Pháp chi cúng dường thắng chư cúng dường.
Tức vấn: Hà vị pháp chi cúng dường?
Thiên viết: Nhữ khả vãng vấn Dược Vương Như Lai. Đương quảng vị nhữ thuyết pháp chi cúng dường.
Tức thời, Nguyệt Cái vương tử hành nghệ Dược Vương Như Lai, khể thủ Phật túc, khước trụ nhất diện, bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Chư cúng dường trung, pháp cúng dường thắng. Vân hà danh vi pháp chi cúng dường?
Phật ngôn: Thiện nam tử! Pháp cúng dường giả, chư Phật sở thuyết thâm kinh, nhất thiết thế gian nan tín nan thọ. Vi diệu nan kiến, thanh tịnh vô nhiễm. Phi đản phân biệt tư duy chi sở năng đắc. Bồ Tát pháp tạng sở nhiếp. Đà-la-ni ấn ấn chi. Chí bất thối chuyển, thành tựu lục độ. Thiện phân biệt nghĩa, thuận Bồ-đề pháp, chúng kinh chi thượng. Nhập đại từ bi. Ly chúng ma sự cập chư tà kiến. Thuận nhân duyên pháp. vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ mạng, không, vô tướng, vô tác, vô khởi. Năng linh chúng sinh tọa ư đạo tràng nhi chuyển pháp luân. Chư thiên, long, thần, càn-thát-bà đẳng sở cộng thán dự.
Năng linh chúng sinh nhập Phật pháp tạng. Nhiếp chư hiền thánh nhất thiết trí huệ. Thuyết chúng Bồ Tát sở hành chi đạo. Y ư chư pháp thật tướng chi nghĩa. Minh tuyên vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt chi pháp. Năng cứu nhất thiết hủy cấm chúng sinh. Chư ma, ngoại đạo cập tham trước giả, năng sử bố úy. Chư Phật, hiền thánh sở cộng xưng tán. Bội sinh tử khổ, thị Niết-bàn lạc. Thập phương tam thế chư Phật sở thuyết. Nhược văn như thị đẳng kinh, tín giải, thọ trì, độc tụng, dĩ phương tiện lực, vị chư chúng sinh phân biệt giải thuyết, hiển thị phân minh, thủ hộ pháp cố, thị danh pháp chi cúng dường.
Hựu, ư chư pháp như thuyết tu hành. Tùy thuận thập nhị nhân duyên, ly chư tà kiến, đắc vô sinh nhẫn, quyết định vô ngã, vô hữu chúng sinh, nhi ư nhân duyên quả báo, vô vi vô tranh. Ly chư ngã sở. Y ư nghĩa, bất y ngữ. Y ư trí, bất y thức. Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh. Y ư pháp, bất y nhân. Tùy thuận pháp tướng, vô sở nhập, vô sở quy. Vô minh tất cánh diệt cố chư hành diệc tất cánh diệt, nãi chí sinh tất cánh diệt cố lão tử diệc tất cánh diệt. Tác như thị quán, thập nhị nhân duyên vô hữu tận tướng, bất phục khởi tướng. Thị danh tối thượng pháp chi cúng dường.
Phật cáo Thiên đế: Vương tử Nguyệt Cái, tùng Dược Vương Phật, văn như thị pháp đắc nhu thuận nhẫn. Tức giải bảo y nghiêm thân chi cụ, dĩ cúng dường Phật, bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như Lai diệt hậu, ngã đương hành pháp cúng dường, thủ hộ chánh pháp. Nguyện dĩ oai thần gia ai kiến lập, linh ngã đắc hàng phục ma oán, tu Bồ Tát hạnh.
Phật tri kỳ thâm tâm sở niệm, nhi ký chi viết: Nhữ ư mạt hậu, thủ hộ pháp thành.
Thiên đế! Thời vương tử Nguyệt Cái, kiến pháp thanh tịnh, văn Phật thọ ký, dĩ tín xuất gia. Tu tập thiện pháp, tinh tấn bất cửu, đắc ngũ thần thông, cụ Bồ Tát đạo, đắc đà-la-ni, vô đoạn biện tài. Ư Phật diệt hậu, dĩ kỳ sở đắc thần thông, tổng trì, biện tài chi lực. Mãn thập tiểu kiếp, Dược Vương Như Lai sở chuyển pháp luân, tùy nhi phân bố. Nguyệt Cái tỳ-kheo, dĩ thủ hộ pháp, cần hành tinh tấn. Tức ư thử thân, hóa bá vạn ức nhân. Ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, lập bất thối chuyển. Thập tứ na-do-tha nhân thâm phát Thanh văn, Bích chi Phật tâm. Vô lượng chúng sinh đắc sinh thiên thượng.
Thiên đế! Thời, vương Bảo Cái, khởi dị nhân hồ? Kim hiện đắc Phật, hiệu Bảo Diệm Như Lai. Kỳ vương thiên tử, tức Hiền kiếp trung thiên Phật thị dã, tùng Ca-la-cưu Tôn-đà vi thủy đắc Phật, tối hậu Như Lai hiệu viết Lâu Chí. Nguyệt Cái tỳ-kheo tắc ngã thân thị. Như thị, Thiên đế! Đương tri thử yếu: dĩ pháp cúng dường, ư chư cúng dường vi thượng, vi tối, đệ nhất vô tỷ.
Thị cố, Thiên đế! Đương dĩ pháp chi cúng dường, cúng dường ư Phật.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32579)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34443)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12521)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12614)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11938)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14854)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20532)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13852)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant