Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Nhị chủng nhập

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14961)
3. Nhị chủng nhập

THIẾU THẤT LỤC MÔN
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải, Nguyễn Minh Hiến hiệu đính Hán văn

NHỊ CHỦNG NHẬP

Trong việc tu tập, tuy có nhiều đường vào đạo, nhưng về cơ bản mà nói thì cũng không ra ngoài hai nhóm này: Một là nương theo nghĩa lý mà vào đạo, hai là nương theo công hạnh mà vào đạo.

Nương theo nghĩa lý mà vào đạo, đó là nhờ nơi kinh giáohiểu rõ được tông chỉ, tin chắc rằng tất cả chúng sinh đều có cùng một tánh chân thật, thảy đều do vọng tưởng nương theo các duyên khởi lên che lấp, làm cho tánh chân thật ấy không thể hiển lộ. Như có thể lìa bỏ vọng tưởng, quay về với tánh chân thật, gom tâm về một mối như ngó vào vách đá, không có ta, không có người, thánh phàm cũng chẳng khác, kiên trì giữ được như thế không lay chuyển, lại không bị trói buộc vào câu chữ trong kinh giáo, như vậy tức là phù hợp với nghĩa lý sâu xa, không còn có chỗ phân biệt, thể nhập vào chỗ tự nhiên vắng lặng vô vi. Đó gọi là nương theo nghĩa lý mà vào đạo.

Nương theo công hạnh mà vào đạo, đây kể ra có 4 hạnh. Còn lại hết thảy các hạnh khác cũng đều không ra ngoài 4 hạnh này. Bốn hạnh là: hạnh báo oan, hạnh tùy duyên, hạnh không mong cầu và hạnh xứng pháp.

Thế nào là hạnh báo oan? Đó là nói người tu hành khi phải chịu đựng khổ đau nên tự nghĩ rằng: “Ta từ trong kiếp xa xưa không người chỉ dạy, bỏ gốc theo ngọn, trôi dạt trong ba cõi, thường khởi lòng oán ghét, gây tổn hại khôn kể xiết. Nay tuy không mắc phải lỗi lầm như thế, nhưng chính là nghiệp ác đã tạo từ trước nay mới kết thành, như trái cây chín rụng, chẳng phải trời hại, chẳng phải người hại.” Nghĩ như vậy rồi vui lòng nhẫn chịu, không một lời than oán.

Kinh dạy rằng: “Gặp khổ chẳng lo buồn.” Vì sao vậy? Là vì đã hiểu biết thông suốt. Khi sinh tâm như vậy là tương ứng, phù hợp với nghĩa lý sâu xa. Nhờ chịu đựng oan khuất mà tiến tới trên đường đạo, cho nên gọi là hạnh báo oan.

Thứ hai là hạnh tùy duyên. Chúng sinh vốn không có gì thật là “cái ta”, thảy đều do nơi nhân duyênnghiệp lực quyết định. Mọi nỗi khổ vui ta nhận chịu đều là theo nhân duyên mà sinh ra. Nếu như được quả báo tốt đẹp, những việc vinh dự, cũng đều là nhờ việc đã làm trong quá khứ. Khi duyên hết trở lại thành không, có gì là vui? Việc được mất đều tùy nơi duyên ngoài, trong tâm vốn thật không hề thêm bớt. Những việc mừng vui vì thế chẳng làm cho tâm mình lay động, ngầm thuận theo với đạo. Vì thế mà gọi là hạnh tùy duyên.

Thứ ba là hạnh không mong cầu. Người thế tục mãi sống trong mê lầm, dù ở đâu cũng không khỏi sự tham lam, đắm chấp, nên gọi là mong cầu. Kẻ có trí hiểu rõ được lẽ chân thật, ngược lại với thế tục, trong tâm an ổn không có chỗ làm, ngoài thân tùy duyên động chuyển. Muôn vật đều là không, chẳng có gì đáng mong muốn, ưa thích. Những việc tốt xấu xen đuổi theo nhau, ở mãi trong ba cõi khác nào như căn nhà đang cháy. Đã có thân này là có khổ, nào ai được an ổn? Hiểu rõ được chỗ ấy nên buông bỏ mọi việc, dứt mọi tư tưởng, chẳng còn mong cầu.

Trong kinh dạy rằng: “Có mong cầu đều là có khổ. Không mong cầu mới được vui.” Rõ ràng biết được rằng không mong cầu thực là hạnh của người tu. Vì thế mà gọi là hạnh không mong cầu.

Thứ tư là hạnh xứng pháp. Tánh thật vốn thanh tịnh, lý ấy gọi là pháp. Tin hiểu được lý ấy thì hết thảy các tướng đều là không, chẳng còn nhiễm ô, chẳng còn đắm chấp, không có ta, không có người.

Kinh dạy rằng: “Pháp không có chúng sinh, cho nên lìa mọi cấu nhiễm của chúng sinh. Pháp không có cái ta, cho nên lìa mọi cấu nhiễm của cái ta.” 

Người có trí tuệ, nếu có thể tin hiểu được lý này thì việc làm xứng hợp theo pháp. Thể của pháp vốn không tham tiếc, nên có thể dùng cả thân thể, tánh mạng và tài sản để thực hành pháp bố thí ba-la-mật, lòng không tham tiếc. Hiểu thấu được ba pháp không, không còn phụ thuộc cũng không chấp giữ, chỉ cần loại bỏ cấu nhiễm. Tùy điều kiệngiáo hóa chúng sinh nhưng không chấp giữ hình tướng. Như thế là tự làm cho mình, nhưng cũng mang lại lợi ích cho người khác, lại có thể trang nghiêm đạo Bồ-đề. Việc bố thí đã là như thế, năm pháp ba-la-mật khác cũng lại như thế. Vì trừ các tư tưởng hư vọngtu hành sáu pháp ba-la-mật, nhưng thật vốn không có chỗ làm. Như thế gọi là hạnh xứng pháp.
Có kệ dạy rằng:

Bên ngoài dứt sạch các duyên,
Trong lòng không một mối phiền khởi lên.
Tâm như vách đá lặng yên,
May ra đến được cửa thiền một phen.

Hiểu rành nghĩa Phật nguồn tâm,
Thẳng đường tu tập chẳng lầm mai sau.
Chỗ làm chỗ hiểu hợp nhau,
Danh xưng là Tổ truyền trao đạo thiền.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22241)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15995)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15012)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18915)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14428)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18599)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14384)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13559)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13537)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11803)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13219)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13641)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13917)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15011)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16145)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11073)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16434)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11879)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17575)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13685)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12836)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14838)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16366)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12069)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12738)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12874)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12751)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14147)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14090)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16444)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12364)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11288)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11010)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13176)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13877)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12985)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13480)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12704)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10221)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10208)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13677)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16246)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12954)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11621)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12647)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10774)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10969)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10920)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11861)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12724)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12598)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11293)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant