Lê Sỹ Minh Tùng
PHẦN IV
Bốn Chân Lý Tứ Diệu Đế
Lục Tổ nói:”không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh?”. Khi con người không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ tốt, không nghĩ xấu, không nghĩ hay, không nghĩ dở …là họ đang sống với cái tâm bình thường của mình. Vì thế Kinh Hoa Nghiêm có câu:”Bản lai diện mục, Niết bàn diệu tâm” là vậy. Con người thường hay có thói quen là so sánh hay dùng đối tượng để đối chiếu. Chẳng hạn cái nhà nầy thì đẹp hơn cái nhà kia. Xe của tôi thì sang hơn xe của anh. Nhà hàng nầy nấu ngon hơn nhà hàng kia…Đây là kết quả của thuyết Nhị Nguyên (Dualism). Thuyết nầy cho rằng các hiện tượng của nhân sinh vũ trụ là do hai thứ bản thể đối nghịch làm thành, như thiện và ác, thể chất và linh hồn…Thuyết nhị nguyên nầy rất được ưa chuộng đối với người Tây phương vì nó giúp cho họ dễ dàng giải thích mọi hiện tượng hoặc đen hoặc trắng. Thí dụ một can phạm thì hoặc là có tội hoặc là vô tội.
Đối
với triết lý Tây phương thì họ tin tưởng vào thuyết “Tiền
Định” (Determinism) mà nhà Phật gọi là thuyết “Nhân
Quả”. Thuyết nầy cho rằng toàn thể thiên nhiên, trong đó
có loài người, được chi phối bởi luật nhân quả (the law
of cause and effect) tức là mỗi hiện tượng xảy ra không thể
nào tự có mà phải có nguyên nhân. Đây cũng chính là giả
thuyết căn bản của khoa học để tìm hiểu những định
luật của thiên nhiên. Đối nghịch với thuyết Tiền Định
hay Nhân Quả là thuyết Vô Định (Indeterminism) mà nhà Phật
gọi là thuyết “Nhân Duyên”. Thuyết nầy cho rằng mọi
việc xảy ra đều là do tình cờ ngẫu nhiên chứ chẳng có
liên quan gì tới bất kỳ những gì xảy ra trước đó. Hai
thuyết Tiền Định và Vô Định là hai thái cực đã từng
làm cho các triết gia Tây phương điên đầu bởi vì cái nầy
đúng thì cái đó không thể sai được. Bởi có hai thái cực
như thế nên thuyết Nhị Nguyên mới ra đời.
Nhưng
việc đời không luôn luôn đơn giản như thế. Trong thế gian
nầy có biết bao trường hợp ngoại lệ mà thuyết Nhị Nguyên
đành bó tay. Chẳng hạn như có rất nhiều gia đình trâm anh
thế phiệt, đa số con cháu ngoan ngoãn nết na tức là hợp
với thuyết Nhân Quả (Tiền định) tự nhiên lại có một
đứa con lêu lổng hoang đàng tức là hợp với thuyết Nhân
Duyên (Vô định). Ngược lại trong chốn bùn dơ lại có khi
mọc lên một đóa hoa sen thơm ngát.
Chân
lý của Đức Phật là xóa tan những biên giới của tư tưởng
nhị nguyên để trở về với bản thể chân thật của nó
là thân tâm nhất như. Chẳng hạn như hiện nay ở Hoa Kỳ
danh từ sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể xác được
áp dụng rất rộng rãi. Khi tâm bất an thì đi bác sĩ tâm
lý còn bệnh về thể xác thì chúng ta đi bác sĩ gia đình.
Nhưng đối với Phật giáo thì tinh thần và thể xác là một.
Tinh thần nằm trong thể xác và ngược lại. Thể xác có sinh
tồn ổn thỏa cần có một tinh thần lành mạnh và con người
muốn được an vui tự tại thì cả tinh thần lẫn thể xác
phải hoạt động hòa điệu với nhau.
Chỉ
có Phật giáo mới cho chúng ta thấy được lẽ thật của
tất cả hiện tượng trong vũ trụ nầy mà không còn hồ nghi.
Bởi vì hễ bản thể có tới đâu thì hiện tượng có tới
đấy. Con người hiện nay vì chạy theo thuyết Nhị Nguyên
nên sống trong quay cuồng điên đảo vì thế Đức Phật mới
dạy chúng sinh quay về sống với nguyên lý Bất Nhị tức
là không hai thì tâm tư sẽ được ổn thỏa và cuộc sống
sẽ trở lại an vui tự tại.Vì thế trong cái thế giới huyễn
hóa nầy tất cả mọi người, mọi vật và mọi hiện tượng
đều là Không và cũng chính từ trong cái Không nầy mà không
có một cá thể riêng biệt độc lập nào có thể tách hẳn
ra khỏi môi trường chung quanh được. Cũng như Sắc và Không
thì chúng không bao giờ có thể tách rời nhau được. Do đó
không có gì là toàn Sắc và cũng chẳng có gì là toàn Không.
Như thế Sắc tức là Không và Không tức là Sắc hay nói một
cách khác Sắc và Không là một tức là bất nhị. Nếu áp
dụng thuyết nhị nguyên vào trong đời sống gia đình thì
người chồng và người vợ là hai. Chồng có tiền bạc riêng
của chồng và vợ thì hoàn toàn độc lập riêng của vợ.
Thử hỏi gia đình nầy thật sự có hạnh phúc không? Bây
giờ nếu ứng dụng nguyên lý bất nhị thì chồng tức là
vợ và vợ chính là chồng, tuy hai nhưng mà một thì gia đình
nầy mới thật sự hạnh phúc. Vì thế cổ nhân có câu:”của
chồng công vợ” là vậy.
Tất
cả vạn pháp mà ngũ quan nhận biết được thật ra chỉ là
cái Tướng giả Có bên ngoài. Còn cái bản thể chân thật
bên trong mà nhà Phật gọi là Tự tánh thanh tịnh thì bất
biến không thay đổi. Nếu nhìn theo Tướng thì có phân biệt
tốt xấu, lớn nhỏ tức là nhị nguyên. Mà Tướng là giả
Có, không thật. Còn dựa theo Tánh thì hoàn toàn đầy đủ,
không cao không thấp, không tốt không xấu…Vì tốt xấu,
cao thấp, sinh tử Niết bàn, phiền não Bồ-đề vẫn là một.
Nói một cách khác trong tốt có xấu, trong cao có thấp, trong
sinh tử có Niết bàn và trong phiền não có Bồ-đề. Bởi
vì một khi con người biết thức tỉnh loại bỏ hết phiền
não thì Bồ-đề hiện ra chớ không phải là phiền não một
nơi mà Bồ-đề ở nơi khác. Thiện ác thì cũng thế. Khi nói
thiện thì phải có đối tượng là ác. Do đó đạo Phật
dạy không nghĩ thiện, không nghĩ ác tức là tiêu diệt đối
tượng. Không còn đối tượng tức là bỏ phân biệt, bỏ
so sánh thì tâm không chạy theo vọng niệm vì thế đây mới
chính là thể tánh chân thật có sẵn trong tất cả mọi người,
đó là chơn tâm vậy. Cái tánh thấy, tánh nghe hay tánh biết
cũng chính là tự tánh thanh tịnh nầy mà ra.
Thêm nữa, khi Lục Tổ nói bản lai diện mục tức là gương mặt thật sẵn có muôn đời của chúng ta và đó cũng chính là cái chơn tâm, cái Phật tánh của chúng ta vậy. Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ tốt, không nghĩ xấu thì tâm không nghĩ tức là tâm không khởi vọng niệm. Bởi vì có bất cứ một ý niệm nào trong tâm cho dù tốt hay xấu thì cũng là vọng niệm, mà khởi niệm là vọng động sẽ làm mất cái chân thật tức là chơn tâm của mình. Do đó tâm dừng nghĩ thì chơn tâm mới hiện bày. Vì thế Lục Tổ khuyên nếu Thượng tọa Minh đừng để tâm chạy theo vọng niệm thì chơn tâm sẽ hiện bày. Cái chơn tâm nầy chính là cái tánh giác sẳn có trong Thượng tọa Minh và cũng trong tất cả mọi chúng ta.
Sau khi ngộ đạo chính Lục Tổ cũng thốt luôn năm cái không ngờ. Ngài nói:
1) Không ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh,
2) Không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt,
3) Không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ,
4) Không ngờ tánh mình vốn không giao động,
5) Không ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp.
Khi
chúng ta sống mà không tranh giành, hơn thua, phân biệt thì
tâm của chúng ta sẽ vô cùng trong sạch, thanh tịnh và không
còn phiền não. Cái tâm nầy chính là cái tâm thanh tịnh thường
có trong tất cả mọi người mà chúng ta bỏ quên để chạy
theo tâm phiền não khổ đau. Cái tâm thanh tịnh nầy chính
là thật Tánh của chúng ta. Đó là cái không ngờ thứ nhất.
Con
người vì chạy theo vọng niệm nên cuộc sống lúc nào cũng
điên đảo mà tạo ra nghiệp. Tự tánh vốn thanh tịnh nên
không khởi vọng niệm. Nếu không khởi vọng niệm thì chúng
ta không gây ra nghiệp. Mà không tạo nghiệp thì không còn
sanh diệt tức là hoàn toàn viễn ly sanh tử luân hồi. Đó
là cái không ngờ thứ hai.
Bất
cứ ai khi vừa mới vừa lọt lòng mẹ thì tự nhiên bật khóc
oa oa mà không cần ai dạy. Lớn lên một chút chúng biết bò
rồi biết đi cũng là tự biết chớ không phải chờ cha mẹ
dạy mới biết. Khi đói thì chúng khóc đòi ăn, buồn ngũ
thì chúng lăn ra ngủ. Tất cả những cái biết có sẵn như
thế thì gọi là tự tánh. Con người ai cũng có sẵn cái tự
tánh từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến bây giờ. Cái tự
tánh nầy không thêm, không bớt cho nên Lục Tổ mới
nói tánh mình vốn tự đầy đủ là như vậy. Vì không biết
điều nầy nên con người bỏ tánh mà chạy theo vọng trần
tức là sống với cái trí thức điên đảo bên ngoài. Đây
là cái không ngờ thứ ba.
Cuộc
sống càng văn minh phức tạp thì con người càng suy tư, nghĩ
ngợi. Suy nghĩ về mình, về người, suy nghĩ về tinh thần
và suy nghĩ về vật chất. Có ít thì suy nghĩ ít, có càng
nhiều thì suy đêm nghĩ ngày. Con người càng suy nghĩ thì tâm
càng vọng động. Mà suy nghĩ là tâm chớ không phải là tánh.
Nhưng tự tánh của con người vốn thanh tịnh, không suy nghĩ
và không giao động. Vì thế hằng ngày con người sống với
tâm điên đảo quay cuồng thay vì sống với tự tánh thanh
tịnh của mình. Đó là cái không ngờ thứ tư.
Bản
thể chân như tức là tự tánh của con người thì thường
hằng bất biến. Nhưng từ cái bất biến nầy mà duyên sanh
ra vạn pháp. Nói một cách khác Chơn không mà Diệu hữu tức
là bất biến mà tùy duyên có nghĩa là từ cái Không mà sinh
ra tất cả. Đó là cái không ngờ thứ năm.
Nói
tóm lại sự kiến tánh của Lục Tổ và của tất cả chúng
sinh là khi con người biết quay về sống với cái tự tánh
thanh tịnh của mình thì chơn tâm từ từ hiện ra. Đây là
con đường giải thoát giác ngộ. Ngược lại nếu chúng sinh
chay theo tâm tức là chạy theo vô minh vọng tưởng thì dĩ
nhiên cuộc sống sẽ trở thành khổ đau, điên đảo. Càng
vô minh điên đảo thì càng tạo nghiệp và đây là con đường
sinh tử luân hồi.
Lục Tổ lúc nào cũng chủ trương con người có thức tỉnh giác ngộ được hay không là bởi nơi tự tâm chớ không nhất thiết do nơi ngồi thiền. Vì thế pháp tu của Lục Tổ Huệ Năng được tóm gọn là:
“Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc”.
Dựa
theo Pháp Bảo Đàn kinh thì Vô niệm là đối với niệm mà
không niệm. Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không ô nhiễm
tức là vô niệm. Do đó khi sáu căn không dính mắc nơi sáu
trần khiến cho sáu thức được hoàn toàn thanh tịnh, không
bị ô nhiễm, hoàn toàn tự tại thì đây chính là vô niệm.
Lục Tổ nói tiếp:
“Người
ngộ được pháp vô niệm thì muôn pháp đều thông, người
ngộ được pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật
và người ngộ được pháp vô niệm thì đến địa vị Phật”.
Ngài
Thần Hội phụ thêm ý nghĩa chữ vô niệm là:
“Vô
niệm tức là không có cảnh giới hay đối tượng nào cả.
Nếu còn một cảnh giới tức chẳng tương ưng với vô niệm”.
Và ngài lại nói thêm:
“Người
khéo thấy vô niệm thì sáu căn chẳng ô nhiễm. Thấy vô niệm
tức hướng về Phật trí. Thấy vô niệm thì gọi là thật
Tướng”.
Thiền
sư Huệ Hải là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất, cháu đời
thứ ba của Lục Tổ Huệ Năng cũng nhấn mạnh về ý nghĩa
của chữ vô niệm rằng:
“Vô
niệm là ở tất cả chỗ mà không tâm, không tất cả cảnh,
không có những nghĩ cầu và đối với các cảnh sắc mà không
khởi động. Người được vô niệm sáu căn không nhiễm và
tự nhiên được vào tri kiến chư Phật”.
Thế nào là vô tướng làm thể?
Con người vì mê lầm mà nghĩ rằng thân mình tức là ngũ uẩn là thật và vạn pháp sinh diệt cũng là thật cho nên cuộc sống mới quay cuồng đau khổ. Bây giờ nếu chúng sinh quay lại để thấy cái thật Tướng của con người cũng như vạn hữu là Vô tướng thì sẽ không còn điên đảo nữa. Mà thật Tướng chính là cái Thể, không sanh không diệt, của vạn hữu trong vũ trụ nầy. Thêm nữa, chân như tức là Thể của niệm và niệm chính là dụng của chân như.
Nhưng thế nào là vô niệm?
Vô
niệm là không tà niệm chớ không phải là không chánh niệm.
Tại sao?
Nếu chúng ta niệm có, niệm không chẳng hạn như niệm thiện, niệm ác, niệm khổ vui, sanh diệt, niệm oán thân, yêu ghét là tà niệm. Còn chẳng niệm thiện, niệm ác, niệm vui, niệm sướng là chánh niệm.
Thế nào là Vô trụ làm gốc?
Vô
trụ là tâm không dính mắc ở nơi nào tức là sáu căn không
dính mắc sáu trần. Nếu được như thế thì tâm vô trụ
tức là tâm Phật, hay là tâm giải thoát, tâm Bồ-đề, hoặc
tâm vô sanh. Đây chính là chứng được vô sanh pháp nhẫn
vậy.
Toàn
bộ hệ thống tu của đạo Phật đều lấy phản quang tự
kỷ làm trọng tâm vì phản quang tự kỷ có nghĩa là xem xét
và quán chiếu lại mình từ thân thể cho tới nội tâm để
thấy rõ thân thể và nội tâm của mình như thế nào. Chẳng
hạn như quán thọ thì khổ có nghĩa là con người phải quay
lại để xem tất cả những cảm giác do sáu trần đến với
mình thì chúng ta cảm nhận rõ ràng chúng đều vô thường,
không thật Có và là gốc của khổ đau.
Khi
chúng ta bỏ tâm vọng tưởng mà phản quang tự kỷ để thấy
được cái thật tánh thanh tịnh của mình thì đây chính là
Như Lai Thanh Tịnh thiền. Do đó khi đi, đứng, nằm, ngồi
con người lúc nào cũng giữ Chánh Niệm tức là theo tánh giác
thì cũng như chúng ta đang tọa thiền vậy. Đối với những
bậc thượng căn lợi trí như Lục Tổ Huệ Năng thì họ tiến
xa hơn phản quang tự kỷ để đến trạng thái gọi là hồi
quang phản chiếu. Vì thế mỗi khi Lục Tổ thấy đệ tử
ngồi thiền thì ngài liền kéo lỗ tai bắt phải đứng dậy.
Vậy không ngồi thiền mà làm sao ngài được giác ngộ? Phương
pháp hồi quang phản chiếu mà Lục Tổ đã thực hành viên
mãn là luôn luôn nhớ nơi sáu căn thường sáng tỏ mà không
phóng ra ngoài. Câu:”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong
kinh Kim Cang làm ngài kiến tánh.
Có
thật chỉ có một câu kinh nầy mà đủ tiềm năng và sức
mạnh để đưa con thuyền Huệ Năng sang bờ giác ngộ hay sao?
Sự minh tâm kiến tánh của Lục Tổ không phải là một sự
tự nhiên mà có mà đây chính là sự thức tỉnh toàn vẹn
để sống với tự tánh của mình. Đó là sáu căn không dính
mắc nơi sáu trần thì tâm hoàn toàn thanh tịnh và cái tâm
nầy chính là chơn tâm, là cái tự tánh thanh tịnh sáng suốt
thường có trong mỗi chúng ta. Nhưng thế nào là sáu căn không
dính mắc nơi sáu trần? Sáu căn là mắt, tai, lưỡi, mũi,
thân và ý và sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và
pháp. Khi mắt thấy sắc mà tâm mê theo sắc là chạy theo sinh
tử, còn tâm không chạy theo sắc là đạt quả Bồ đề.
Thí
dụ như mắt thấy một chiếc xe thật mới, thật đẹp và
lộng lẩy mà tâm của chúng ta không rung động tức là lòng
tham không nổi dậy. Tại sao chiếc xe đẹp như thế mà chúng
ta không si mê? Khi biết vạn pháp giai không thì trên đời
nầy có cái gì là thật đâu? Cái hình tướng đẹp đẻ bề
ngoài nầy chỉ là giả tướng, là do nhân duyên tạo thành
nên bị sinh diệt. Do đó cái đẹp ngày nay của chiếc xe chỉ
là tạm bợ, nhất thời bằng một lớp sơn bóng bên ngoài
và nó cũng trở thành xấu và hư hoại như những chiếc xe
khác nay mai mà thôi. Thế thì xe vẫn là xe và ta vẫn là ta,
chả có gì là quan trọng cả.
Khi
biết thế thì tâm không khởi động niệm tức là tâm không
dính mắc. Nên nhớ tâm không khởi vọng niệm và không phân
biệt thì đây chính là chân tm vậy. Âm thanh thì cũng thế.
Khi nghe tiếng nhạc êm đềm hay lời khen, tiếng chê thị phi
mà tâm không khởi vọng niệm phân biệt tức là ta không bị
si mê hay tức giận thì tâm không dính mắc. Cái cạm bẩy
trên thế gian nầy lúc nào vẫn là Tham-Sân-Si làm cho cuộc
sống trở thành điên đảo. Không dính mắc là biết buông
xả và không chạy theo tham dục nên không bị con rắn Tham-Sân-Si
hành hạ. Nên nhớ tai và mắt là hai căn rất bén nhạy và
nó chính là hai cánh cửa lớn để thâu nhập vọng niệm từ
bên ngoài. Còn lưỡi nếm những thức ăn ngon làm ta thích
và thức ăn không ngon làm ta bực bội, không vui. Không
dính mắc là ăn để sống chớ không phải ăn để gây ra
phiền não.
Ngày
nào chúng ta còn thích món nầy hay không thích món nọ là ngày
ấy tâm còn dính mắc. Nhắc lại ngày xưa Đức Phật hằng
ngày đi khất thực thì Ngài thọ dụng bất cứ những gì
chúng sinh cúng dường mà tâm luôn thường trụ Niết Bàn có
nghĩa là bất cứ món nào Ngài ăn cũng ngon, miễn sao no bụng
là xong. Tấm thân của con người theo tinh thần Phật giáo
cũng như chiếc bè dùng để qua bờ bên kia. Chúng ta ăn uống
để nuôi thân cũng như tu bổ chiếc bè đừng cho đổ bể
chớ đừng sơn son thép vàng mà quên đi cứu cánh là bến
bờ bên kia chớ không phải chiếc bè. Vì thế nếu cung phụng
cho thân tức là tham có nghĩa là tâm vẫn còn dính mắc.
Còn
khứu giác thì sao? Con người lúc nào cũng có khuynh hướng
thưởng thức hương vị thơm ngon. Mùi thơm của hoa dạ lý,
hoa lan hoặc hoa hồng làm cho con người sảng khoái và thích
thú. Khi ngữi mùi hoa thơm thì lòng tê tái, sung sướng muốn
hái nó đem cắm trong phòng của mình. Thế thì từ lòng si
mê biến thành lòng tham muốn chiếm hữu. Chẳng hạn như khi
thấy mâm cơm trên bàn mà ngữi thấy đồ ăn thơm ngon thì
lòng tham nổi dậy muốn ăn cho nhiều, cho thật no. Còn ngữi
không thơm ngon thì đâm chán ghét, muốn đánh đổ nó đi.
Vì thế một khi con người còn muốn thỏa mãn khứu giác của
mình là tâm vẫn còn dính mắc.
Từ
trước đến nay cái nghe của chúng ta là dựa theo âm thanh
bên ngoài. Vì cái nghe duyên theo âm thanh bên ngoài nên được
gọi là tùy lưu có nghĩa là trôi theo giòng bên ngoài. Bây
giờ nếu chúng ta không trôi theo theo giòng bên ngoài mà chỉ
nhớ đến tánh nghe mà tánh nghe thì không có tướng mạo và
trùm phắp mười phương nên không bị hạn chế hay ngăn cách
thì dĩ nhiên tâm không còn bị dính mắc. Mắt thì cũng thế,
đừng để thị giác duyên theo sắc trần mà chỉ quay về
với tánh thấy thì tâm không bị dính mắc.
Về
sau Tổ Lâm Tế và những vị Tổ khác cũng không thích ngồi
thiền mà chỉ hồi quang phản chiếu mà thôi. Vì thế khi giảng
pháp cho đồ chúng thì ngài hỏi:”Người đang nghe pháp đây
là ai?”. Ý của Tổ Lâm Tế là sáu căn của con người là
sáu cánh cửa để tiếp nhận gió lục trần. Nếu con người
biết dùng tánh nghe, tánh thấy, tánh ngữi, tánh nếm…mà
không bị dính mắc thì người đó đang sống với cái tánh
chân thật của mình tức là họ đang ngồi thiền vậy. Người
nào đạt được trình độ như vậy dù ngồi giữa chợ cũng
vẫn thiền như thường.
Thật
ra sống trong thế kỷ 21 nầy thì phương pháp thiền mà không thiền của Lục Tổ rất hữu ích và có thể áp dụng
được trong cuộc sống thường nhật ở bất cứ nơi nào
cho tất cả chúng sinh. Khi một thiền giả chỉ đợi đến
một giờ nhất định mới đi tọa thiền, khi thiền thì yên
lặng theo dõi từng hơi thở để cho tâm hoàn toàn tĩnh lặng,
tự chủ và an lạc. Nhưng khi xã thiền và đối diện với
cuộc sống xô bồ xáo trộn thì họ đánh mất tính tự chủ
và tâm thanh tịnh của mình. Thêm nữa, trong thiền phòng, thiền
giả đi thiền hành từng bước chậm rãi, khoan thai và có
ý thức nhưng trong cuộc sống ngoài đời từ trong gia đình,
chợ búa, công sở…thì họ trở thành một con người khác,
đi đứng một cách hồ đồ, vội vã như bị ma đuổi vì
họ không còn giữ được chánh niệm bởi vì vọng niệm đua
nhau quấy phá và giết chết tâm thanh tịnh của họ.
Do
đó nếu chúng ta muốn trở về với tâm thanh tịnh thì có
thể áp dụng phương pháp phản quang tự kỷ tức là dùng
thiền định để làm cho tâm được an định trong một thời
gian nhất định là 15 phút cho đến một giờ rồi sau đó
nới rộng cái tâm an định nầy trong suốt 24 tiếng đồng
hồ bằng cách luôn giữ Chánh Niệm thì cũng tìm được sự
an vui tự tại. Hoặc là lúc nào cũng thức tỉnh để có đủ
nghị lực sáng suốt hầu ngăn chận sáu căn không cho dính
mắc nơi sáu trần. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp hồi
quang phản chiếu để sống với cái tánh giác chân thật thanh
tịnh đầy đủ của mình. Khi tự tánh trong sáng được thể
hiện thì nó sẽ mang lại sự an lạc, yên vui và chính sự
thức tỉnh kiến tánh nầy sẽ là kinh nghiệm mà mình có thể
sống mãi trong đó, không bao giờ chấm dứt.
Con
người sống trong thế gian nầy thì hằng ngày lục căn tiếp
xúc với lục trần mà ba cánh cửa chính là Thân-Khẩu-Ý luôn
luôn phát khởi để tạo ra nghiệp. Nhưng trên thực tế thì
tuy thân khẩu ý tác tạo nhưng cội nguồn vẫn phát xuất
từ tâm. Khi chúng ta muốn mắng chửi người nào thì trước
nhất chúng ta phải có những ý niệm không tốt về người
nầy và sau đó tâm mới phát họa thêm ra những hình ảnh
xấu để chúng ta ghét họ và sau cùng mới đánh chửi họ
được. Thế thì tất cả những tội nghiệp mà chúng ta đã
gây ra đều phát xuất từ tâm. Nhưng tâm là Tướng tức là
không thật. Nếu tâm không thật thì tội nghiệp làm gì có
thật? Đức Phật dạy thêm rằng:”tội nghiệp từ tâm sanh,
cũng từ tâm diệt”. Nếu chúng ta nghĩ rằng nếu mình có
gây ra tội nghiệp thật thì sẽ có quả báo thật. Nói như
thế có nghĩa là chúng ta xác nhận tâm là thật, tội nghiệp
cũng thật và dĩ nhiên quả báo cũng là thật. Nhưng tâm là
vọng tưởng chứ đâu có thật. Chỉ có Thể là thật tánh,
là chân như thanh tịnh mới là thật.
Do
đó nếu tâm không thật, tội nghiệp cũng không thật thì
quả báo làm sao có thật? Nói như vậy có nghĩa là gốc của
tội nghiệp phát xuất từ tâm mà tâm nầy chính là tâm sinh
diệt tức là tâm nghĩ thiện, nghĩ ác, nghĩ tốt, nghĩ xấu
mà thôi. Biết tâm là sinh diệt thì con người phải quay về
tâm để trừ cái sinh diệt nầy thì làm gì còn tội nghiệp.
Thí dụ như hiện nay ta đang oán hận ai và muốn tìm cách
để hảm hại hay tiêu diệt người nầy. Muốn hại người
là do tâm. Bày mưu lập chước để hại người cũng bởi
do tâm. Nếu biết thức tỉnh quay về dập tắt cái tâm cuồng
loạn nầy thì tâm bất thiện không còn nữa. Vì thế tâm
diệt thì tội nghiệp cũng theo đó mà diệt.
Nếu dựa theo Lục Tổ là tâm của chúng ta không nghĩ thiện, không nghĩ ác, buông xả hết tất cả thì cái tâm sinh diệt sẽ được yên lặng. Tâm mà yên lặng thì tự tánh sẽ hiện bày để giúp con người sống yên vui thanh tịnh. Tâm kinh lại dạy rằng ngũ uẩn giai không tức là thân nầy không thật. Thân của chúng ta không thật vì thân nầy là do trùng trùng duyên khởi hợp lại mà thành. Thân thì không thật mà hành động tạo tác phát xuất từ thân nên cũng hư dối. Một khi hành động không thật thì tội nghiệp do thân tạo ra làm sao thật được? Vì thế thiền sư Huyền Giác mới có câu:
Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu ưng tu thường túc trái.
Dịch là:
Liễu ngộ tức nghiệp chướng xưa nay không
Chưa liễu ngộ cần phải đền nợ trước.
Đối với các bậc liễu ngộ thì họ thấy các pháp duyên hợp thì không thật. Mà thân nầy chính là do pháp duyên hợp nên thn là hư dối. Hành động tạo tác phát xuất từ thân thì lại càng không thật. Do đó họ thấy rằng hành động không thật thì nghiệp do hành động tạo thành làm sao thật được? Bởi biết nghiệp không thật nên họ xem thường và không quan trọng vì thế nếu nghiệp có đến thì họ xem cũng như trò chơi chả có gì phải kinh hoàng sợ hãi. Khi vua Kế Tân muốn giết hại Tổ Sư Tử n??n cầm dao đến trước mặt Tổ mà nói rằng:
- Có thật ngài thấy ngũ uẩn giai không chăng?
Tổ đáp:
- Đúng vậy.
Vua nói thêm:
- Nếu thế ngài có thể cho tôi cái đầu được không?
Tổ đáp:
- Năm uẩn đã không sá gì cái đầu.
Nhà
vua liền chặt đầu ngài.
Đối
với cái nhìn của chúng ta thì cái chết của Tổ Sư Tử chẳng
qua là để trả nghiệp. Luật nghiệp quả không sót một ai
cho dù kẻ đó là người chứng đạo. Trường hợp nầy cũng
giống như tôn giả Mục Kiền Liên bị bọn ngoại đạo lăn
đá trên núi cao đè chết mặc dù tôn giả là đệ nhất thần
thông hay là ngài Huệ Khả bị giết trong khám. Nhưng thật
ra dưới mắt của người ngộ đạo thì nghiệp là hư dối,
không thật thì làm gì có chuyện trả nghiệp. Thân là giả
thì nghiệp cũng không thật nên họ thong dong tự tại không
vướng mắc, lo âu hay sợ hãi.
Nên nhớ thân không thật, hành động không thật và tội nghiệp cũng không thật nhưng không phải là không Có, tất cả chỉ là hiện tượng duyên sinh nên không thật Có. Vì thế tội nghiệp tuy không thật mà chẳng mất.
Ngày xưa ngài Tăng Xán bị bệnh cùi rất đau khổ nghe danh Tổ Huệ Khả nên đến nghe pháp. Khi gặp Tổ thì ngài thưa:
- Bạch Hòa Thượng! con nghiệp chướng nặng nề nên phải mang bệnh nan y xin Hòa thượng dạy con phương pháp sám hối.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi xưa nên nhìn thẳng vào mặt Tăng Xán mà nói rằng:
- Đem tội nghiệp ra, Ta sẽ sám cho.
Ngài Tăng Xán quay lại tìm nhưng tìm mãi mà không thấy tội nghiệp ở đâu nên thưa:
- Bạch Hòa thượng! Con tìm tội không được.
Tổ Huệ Khả bảo:
- &
đó.
Ngài
Tăng Xán quay lại tìm tội nghiệp của mình mà lúc đó ngài
cho là thật, nhưng càng tìm thì càng không thấy tâm dạng
của nó ở đâu. Vì ngài thấy tội nghiệp là thật mới sanh
ra bệnh cùi bây giờ tìm thì lại không thấy nó nữa. Như
vậy tội nghiệp có hay không? Nếu không thì làm sao lại mang
bệnh còn nếu có thì nó ở đâu? Khi ngài Tăng Xán tìm mà
không thấy tội nghiệp thì tội nghiệp nay biến thành không.
Một khi tội nghiệp đã không thì hiện tượng quả báo đang
chịu đó làm sao có thật? Vì thế cái gốc của tội nghiệp
vốn không thì tất cả tướng tội nghiệp cũng theo đó mà
tiêu diệt hết. Khi hiểu được như thế thì bệnh cùi của
ngài Tăng Xán từ từ tan biến và về sau trở thành Tổ thứ
ba của Trung Quốc.
Còn
chúng ta thì cũng thế. Khi mang bệnh trầm kha hay gặp chuyện
hiểm nghèo thì hảy cố tìm xem chỗ nào mà sanh ra bệnh hoạn
hay chuyện trắc trở. Nếu tìm không được tội nghiệp thì
bệnh sẽ lành còn tìm ra nó thế nầy thế kia thì tội nghiệp
chưa hết. Tội nghiệp còn thì đau khổ sẽ còn và dĩ nhiên
sám hối là phương pháp để hòa giải oan gia nghiệp báo kia.
Con
người sống trong bất cứ xã hội nào thì hoàn cảnh chung
quanh dễ dàng ảnh hưởng để làm cho con người tạo nghiệp.
Như khi sanh ra chúng ta đâu có ghiền cà phê, thuốc lá hay
rượu chè cờ bạc. Do đó khởi nguyên không có mà sau đó
mọi đau khổ đều do chính mình chủ động tạo ra. Nhưng
Phật dạy:”nghiệp tánh bổn không” có nghĩa là tánh nó
vốn không thì làm gì có nghiệp. Vì thế một khi con người
tìm thấy tội nghiệp tức là còn thấy cái nhân gây ra nghiệp
có nghĩa là còn thói hư, tật xấu. Nếu không tìm thấy tội
nghiệp tức là buông xả hết thói hư, tật xấu làm căn gây
ra nghiệp thì nghiệp đâu còn. Không thấy tội nghiệp tức
là không chạy theo vọng trần mà sống với tánh giác của
mình.
Câu
chuyện ngài Đạo Tín lúc ấy mới mười bốn tuổi tìm tới
gặp Tổ Tăng Xán mà thưa rằng:
- Kính bạch Hòa thượng! xin Hòa thượng dạy cho con pháp môn
giải thoát.
Tổ Tăng Xán bảo:
- Ai trói buộc ngươi?
- Không ai trói buộc con.
Tổ bảo:
- Không ai trói buộc thì cầu giải thoát để làm gì?
Chúng
ta thường hay có thói quen là nghĩ rằng nghiệp dẫn dắt chúng
sinh đi trong sanh tử luân hồi. Vì thế nghiệp chính là cái
đã trói buộc mình. Nhưng nghiệp có thật không? Nếu nghiệp
là thật thì chúng ta đã tìm thấy, nhưng có ai thấy được
nghiệp của mình đâu? Như thế thì nghiệp không thật nên
tìm không thấy. Nếu nghiệp không thật thì làm sao dám kết
luận là nghiệp trói buộc mình. Do đó khi biết nghiệp không
thật nên hết trói buộc tức là giải thoát. Nói một cách
khác là nếu con người làm chủ được mình có nghĩa là không
còn chạy theo thói hư tất xấu mà cái gốc của nó là suy
nghĩ, phân biệt, đối đãi để có cơ hội tạo nghiệp thì
nghiệp đâu còn tức là chúng ta được giải thoát vậy.
Ví
như ngày xưa khi chúng ta chưa học đạo, nếu có người làm
việc gì sai quấy làm tổn thương đến danh dự và gia đình
của chúng ta thì dĩ nhiên chúng ta mắng chửi họ một cách
thậm tệ. Một thời gian sau thì người bị mắng chửi kia
tìm đến để mắng chửi trả thù. Bây giờ đến lượt ông
ta mắng chữi chúng ta rất thậm tệ. Đây chẳng qua là nhân
quả mà thôi. Như thế đây có phải trả nợ trước hay không?
Khi đã biết đạo thì thấy lời mắng chửi kia không thật,
không có gì quan trọng nên chúng ta vẫn bình thản tươi cười.
Thật ra nợ đã vay thì phải trả, chỉ khác là người mê
thì thấy thật còn người ngộ thì thấy là hư dối. Mà nghiệp
đã không thật thì trả cũng như không trả, không có gì quan
trọng cả.
Vì thế khi biết rằng:”nghiệp tánh bổn không” tức là thân không thật, hành động do thân tác tạo cũng không thật thì dĩ nhiên nghiệp báo cũng là hư dối, không thật. Mà nghiệp không thật thì còn cái gì trói buộc, làm khổ chúng ta cho nên từ đây cuộc sống của con người sẽ được an vui tự tại và hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau.
“Khi
nghiệp chướng tới thì phiền não khởi. Cũng như khi không
giữ chánh niệm thì tà niệm khởi. Lúc ấy, bạn thấy người
nào cũng không hợp nhãn; thấy việc gì cũng chẳng vừa lòng.
Thật ra, không cần biết bạn có lý hay vô lý, hễ bạn khởi
phiền não là bạn đã sai lầm rồi đó”.
Bốn
Loại Tứ Diệu Đế
Khi
nói đến Tứ diệu đế thì chúng ta có ấn tượng ngay đây
là những chân lý mà Đức Thế Tôn đã truyền dạy cho nhóm
ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển của xứ Ba-la-Nại
sau khi Ngài vừa thành đạo. Trong suốt 49 năm hành đạo, chính
Đức Phật đã thuyết giảng Tứ Diệu Đế cho không biết
bao nhiêu đệ tử. Ngày nay Tứ Diệu Đế vẫn là cánh cửa
lớn và nền tảng cho chúng sinh bước vào căn nhà giác ngộ.
Chân lý nầy đã được trích dẫn rõ ràng trong phần trên
của Tm kinh. Tứ diệu đế nầy rất phổ thông trong hầu hết
tất cả những kinh điển của Phật giáo vì nó chính là nền
tảng căn bản để giúp chúng sinh đoạn trừ phiền não khổ
đau ngỏ hầu đạt đến cứu cánh thanh tịnh của Niết Bàn.
Nhưng đây chỉ là Tứ diệu đế cho hàng Thanh văn A La Hán
mà thôi chớ không phải cho hàng Bồ tát. Tứ diệu đế bao
gồm:
1) Khổ đế là nói về tất cả những nỗi khổ trên thế gian
nầy từ tam khổ như khổ khổ, hoại khổ và hạnh khổ cho
đến bát khổ như sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ,
ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ
và sau cùng là ngũ uẩn thạnh khổ.
2)
Tập đế là nguyên nhân của những nỗi khổ. Đó là:
Kiến
hoặc là bị nhiều thành kiến, tà kiến làm cho tâm mê hoặc
vì tin theo các thuyết của các đạo tà, ma, thần, quỷ và
các học thuyết của các chủ nghĩa sai lầm. Đó là thân kiến,
biện kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Tư
hoặc là bị các phiền não của tham, sân, si, mạn, nghi
làm cho tâm mê hoặc.
Vô
minh hoặc là sự mê lầm bởi không thấy biết chánh kiến.
Trần
sa hoặc là còn nhiều thứ mê hoặc nhiều như cát, như bụi
không kể xiết. Muốn đạt đến địa vị Bồ tát phải đoạn
trừ cho hết tất cả những mê hoặc sa trần.
Vì
chúng sinh sống trong thế gian nên phải chịu ngũ trược ác
thế tức là năm thứ vẩn đục độc ác làm nhân khổ cho
con người.
Ngũ
trược ác thế gồm có:
Kiếp
Trược là thời đại tụ hợp toàn những pháp vẫn đục
của thế gian.
Kiến Trược là thời đại có 5 tà kiến. Đó là:
a) Thân kiến là si mê lầm tưởng thấy thân ta và những vật của ta là thật Có.
b) Biện kiến là khi đã cố chấp thân ta và vật của ta là thật Có. Nếu họ theo chủ nghĩa “đoạn” tức là Vô có nghĩa là khi thân ta chết là hết hoặc theo chủ nghĩa “thường” tức là Hữu có nghĩa là thân ta chết mà vẫn còn, không mất, không thay đổi.
c) Kiến thủ là học theo những ý kiến chủ nghĩa tà ngụy, kém cỏi, hẹp hòi của các tà thuyết, tà đạo mà họ cho là mầu nhiệm hay hơn hết.
d) Giới cấm thủ là học theo những giới luật nhảm nhí của bọn tà ma để cầu sinh lên trời…
e) Tà kiến là học theo tất cả những lý luận, những chủ nghĩa, những đạo giáo sai lầm cho là đời người không có nhân, có quả chi hết, cũng không có thiện báo, ác báo chi cả.
Chúng
sinh ở vào thời đại có năm tà kiến nầy sẽ làm cho họ
tối tăm mù quáng và đắm chìm vẫn đục nên gọi là đời
Kiến trược.
Phiền Não Trược là năm thứ phiền não mà nó ngấm ngầm sai khiến con người vì nó đã ăn sâu vào trong tiềm thức từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Năm thứ phiền não đó là:
a) Tham lam: yêu thích, ham muốn.
b) Sân hận: giận dữ, thù hằn.
c) Si mê: ngu dốt, mê muội.
d) Mạn: kiêu ngạo, khinh người, trịch thượng.
e) Nghi ngờ: không có tín tâm chân thật.
Năm
cái Tâm Sở xấu xa nầy luôn luôn ngấm ngầm gây ra phiền
não, rung động, rối loạn và làm vẩn đục cái tâm tính
yên tĩnh trong sạch, sáng suốt của con người nên được
gọi là đời Phiền Não Trược.
Chúng
Sinh Trược là cái thân thể và cái thế giới của chúng ta
ở đây do năm Kiến Trược và năm Phiền Não Trược cảm
ứng mà hiện ra ngũ uẩn hòa hợp với nhau. Nó rất thô bỉ,
tệ ác và giả tạm mà được gọi là thân thể chúng ta.
Mạng Trược là phần nhân, phần quả đều kém cỏi, mạng sống quá ngắn ngủi cho dù là trường thọ cũng chẳng toàn vẹn một trăm năm cho nên gọi là đời Mạng Trược.
3) Diệt đế: chính là Niết bàn.
4) Đạo đế: có tất cả 37 phẩm trợ đạo để giúp chúng sinh đạt đến cứu cánh Niết bàn.
Vậy bốn loại Tứ diệu đế là: Sinh diệt Tứ diệu đế, Vô sinh Tứ diệu đế, Vô lượng Tứ diệu đế và Vô tác Tứ diệu đế.