Hán dịch: Sa môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
KINH
TRUNG
ẤM: QUYỂN THƯỢNG
ĐẠO THỤ
Bấy giờ ở trên tòa có Bồ Tát tên là Thụ Vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, gối hữu sát đất, chắp tay quỳ trước Phật bạch rằng: Lành thay! Thế Tôn! điều mà Như Lai nói hết sức đặc thù. Chẳng rõ Như Lai muốn nói về hữu lậu hay vô lậu, cầu mong Thế Tôn, nói ra từng câu, thế nào hữu lậu, thế nào vô lậu?
Đức Phật bảo rằng: Có sanh có diệt chính là hữu lậu; không sanh không diệt chính là vô lậu. Có ta, có thân chính là hữu lậu; không ta không thân chính là vô lậu. Mắt đối với sắc là hữu lậu, không mắt không sắc là vô lậu. Có thức, có tưởng và có hình là hữu lậu, không thức, không tưởng và không hình là vô lậu. Chỗ tam thức xứ trụ có thân là hữu lậu; mỗi thức mỗi xứ có mỗi hình là vô lậu, Hữu Hình, Phi Tưởng, Phi Phi tưởng là Lượng Pháp Hữu Dụng; chỗ bất dụng là Tam Thiền Địa. Chán ghét tử sanh gọi là Bất Dụng. Có nguyện không nguyện phát khởi Sơ Thiền. Hay thay lạc kia tâm chẳng dao động. Niệm tịnh hỉ an tự giữ năm hành. Thành tựu có tưởng có diệt đó là pháp xuất nhập hỷ hành.
Trăm
tám ái một niệm.
Một
ức
hành trung gian.
Tưởng
tưởng
không thể hết
Có
kia
mới có thân.
Không
kia
không ngã tưởng.
Ta
từ
vô số kiếp
Xả
ngã
này mới được.
Chỗ
ba
thức đi qua.
Không
hữu
cũng không ngã
Thương
thay
ba cõi khổ.
Thọ
thân
sanh tử nạn.
Thí
như
phép ảo thuật
Dùng
tay
dọa trẻ con.
Thức
thần
vô hình phép.
Khởi
-
diệt luôn vô thường
Ta
không
có thân ta.
Sao
có
pháp thức hình.
Pháp
tưởng
và vô tưởng
Cũng
chẳng
thấy có thức.
Bốn
ấm
sẽ ở đâu?
Ta
và
ông chẳng có.
Ta
từ
nhiều kiếp xa.
Nơi
ba
thức trải qua.
Ngoài
Trời,
Rồng, Quỷ Thần.
Chỗ
nào
không Diệu Giác?
Ta
làm
các pháp lành
Thề
độ
vô số chúng.
Tùy
thân
mà giáo hóa.
Ứng
hóa
không lường được
Hạnh
thanh
tịnh Như Lai.
Rộng
khắp
không ngằn mé.
Thần
thông
chiếu trong ngoài
Quan
sát
ở ba đời.
Loại
hữu
hình vô hình.
Tư
duy
mười tưởng kiết
Chẳng
còn
phiền não khổ.
Hư
không
nào bờ mé.
Nào
thấy
có vãng lai
Trong
tâm
chẳng nghĩ suy.
Nhẫn
nhục-công
đức thành.
Tích
tập
thành Phật đạo
Vui
Niết
Bàn vắng lặng.
Khởi
cũng
chẳng thấy khởi.
Sanh
cũng
chẳng thấy sanh
Khởi
diệt
làm sao có.
Loài
người
và chư thiên.
Dứt
niệm
đến bờ kia
Mắt
kẹt
vào ba cõi.
Biển
sống
chết đi qua.
Vì
mê
hoặc nơi sắc.
Tham
muốn
trói cột ta.
Phật
lực
không khiếp sợ.
Ở
hoài trong ba cõi
Vì
người
chẳng vì mình.
Tiếp
ứng
chúng hữu tình.
Hằng
dùng
bốn ý chỉ
Công
đức
nào tính được.
Thất
giác
ý bảo hoa.
Năm
lực
và năm căn
Không
vô
tướng tam muội.
Ba
mươi
bảy trợ đạo.
Sáu
độ
đến bờ kia
Phương
tiện
chuyển tử sanh.
Qua
lại
cõi hư không.
Chẳng
trải
qua kiếp số
Đắc
đạo
như vi trần.
Người
độ
thoát – chưa thoát.
Một
âm
diễn pháp mãi
Niệm
ngã
- bỉ đâu còn.
Pháp
quán
sát đạo tâm.
Người
nghe
không ngằn mé
Phân
biệt
nội ngoại thân.
Chẳng
thấy
đâu khởi - diệt.
Cột
vào
an ban tức
Hơi
thở
ngắn - biết ngắn.
Hơi
thở
dài - biết dài.
Định
tưởng
biết rằng định
Loạn
tưởng
cũng biết loạn.
Hạnh
thanh
tịnh nào hơn.
Chuyên
tâm
không loạn tưởng.
Lúc này Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Chỗ
hành của Phật lực
Tươi
mát
khắp Trời người
Hàng
Hữu
Học – Vô Học
Dưới
đến
kẻ phàm phu
Đoạn
các
tướng tâm niệm
Đều
đến
nơi vô úy
Phân
biệt
Không – Vô tướng
Tu
đạo
tràng thanh tịnh
Cây
Phật
đạo trang nghiêm
Đều
khiến
đồng một sắc
Chuyển
pháp
luân vô thượng
Nêu
cao
tiếng trống pháp
Chẳng
phải
chúng cõi ma
Thì
có
thể chuyển được
Mở
pháp
tạng Cam lồ
Rưới
khắp
hết thảy loại
Cứu
độ
nhiều vô số
Chẳng
phân
biệt loại nào
Chỗ
tiếp
độ tuyệt vời
Người
đắc
đâu thể tính
Hay
thay
chẳng nghĩ bàn
Chỗ
độ
nào xiết kể
Những
lập
hạnh ta xưa
Chỉ
Phật
so lường được
Đừng
đắm
chấp ngã pháp
Pháp
mãi
lợi ích người
Công
hạnh,
ra ba cõi
Được
vào
cõi Niết Bàn
Sạch
trong
không chút uế
Như
ánh
sáng trăng sao
Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn nói kệ này có tám mươi bốn ức và vô số trăm nghìn ức chúng sanh Trung Ấm đều hết các trần cấu và được pháp nhãn tịnh. Lại có mười nghìn ức chúng sanh Ngũ Sắc Thức, phát tâm hướng về đạo giác ngộ bất thối chuyển.