Hán dịch: Sa môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
KINH TRUNG ẤM: QUYỂN HẠ
KHÔNG SANH DIỆT
Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai như muốn dời đến các cõi nước của các Phật mới bảo với ba loại chúng sanh phát tâm hướng đến cầu đạo Niết Bàn: Nay ta bây giờ nói pháp cho các ngươi, nếu có điều nghi ngờ thì cứ hỏi ta, Niết bàn có sanh có diệt không chứ?
Lúc này ba loại chúng sanh nghe lời nói của Như Lai mới bạch Phật rằng: Từ cõi Dục lên đến cõi Phi Tưởng, Phi Phi Tuởng phát tâm hướng về Đại Thừa Bất Tư Nghì pháp, chưa từng nghe có pháp hữu vi, vô vi, gì là hữu dư, gì là vô dư, thế nào là pháp thượng nhơn, thế nào là pháp phi thượng nhơn?
Bấy giờ Đức Thế Tôn phân biệt Cú Nghĩa, Tự Nghĩa và Vô Tướng Nghĩa cho ba loại hữu tình.
Thần lực Như Lai có ba mươi hai pháp, những gì là ba mươi hai? Nhớ được căn bổn đã sanh của mình trong kiếp quá khứ. Biết được túc nghiệp của mình trong mỗi đời sống, chết kia sống đây, chết đây sống kia. Dùng nhãn thức thông quán sát như thấy hạt châu trong lòng bàn tay. Dùng nhĩ thông nghe được những tiếng như con nhặn đi, con ruồi bò…và tất cà các tiếng nhỏ nhất đều nghe hết thảy. Xưa có ba cõi, nay không ba cõi, các người phát tâm ngộ mỗi mỗi đều sai khác, trung gian đều thay đổi. Thế nào là ba cõi? Thế nào chẳng phải ba cõi?
Bấy giờ lúc Đức Thế Tôn nói điều này, ba loại chúng sanh lại sanh nghi ngờ. Lúc ấy Đức Thế Tôn biết điều suy nghĩ của tâm chúng sanh kia là muốn được nghe Ngài nói pháp Quán Vô Tướng, nên dùng kệ nói rằng:
Tại
sao gọi là đầu?
Tại
sao
gọi là chân?
Tại
sao
gọi là hoa?
Tại
sao
gọi là quả?
Mạng
người
ở cái đầu
Chết
ra
tro bụi đất
Gốc
cây,
trăm hoa cỏ
Bứng
bỏ
gốc nào sanh
Quán
các
pháp tướng này
Không
đầu
cũng chẳng chân
Pháp
hữu
dư, vô dư
Như
đây
mà hiểu được
Nếu
cho
có Niết Bàn
Thân
mạng
ta hiện còn
Nếu
nói
không Niết Bàn
Nơi
nào
còn ba loại
Nên
Phật
dùng Thần Lực
Khiến
người
rõ hữu, vô
Ta
xem
ba cõi khổ
Vừa
có
cũng vừa không
Niệm
trước
khác niệm sau
Thân
trước
khác thân sau
Vô
số
kiếp ta qua
Cất
chân
vào đối đãi
Ở
đó khởi đại bi
Nhị
thừa
đâu bước nổi
Lúc
ta
khởi đại bi
Thấy
kẻ
khổ ba đường
Như
mẹ
hiền nuôi con
Không
gì
không no đủ
Xưa
ta
chỉ bố thí
Nay
được
theo điều mong
Bảy
báu
các kỳ trân
Khởi
tâm
tức thời được
Huống
gì
bốn đẳng cụ
Sáu
độ
cứu chúng sanh
Ai
rành
rẽ điều này
Chỉ
Phật-Phật
thấy biết
Nay
Đang
nói với ngươi
Hữu
dư,
vô phân rõ
Muốn
đắc
Quan Ngã Giới
Ta
mới
dùng thần thức
Đến
nước
kia làm Phật
Tên
gọi
Thích Ca Văn
Bảy
mươi
hai hằng hà
Tây
Nam
Độ trang nghiêm
Chỉ
dùng
Nhất Thừa hóa
Không
Bích
Chi, Thanh Văn
Cõi
kia
vui sướng lắm
Khởi
niệm
liền hiện bày
Chẳng
giống
cõi nước này
Dâm,
nộ,
si trói buộc
Một
tiếng
khắp bốn phương
Người
nghe,
tìm…được độ
Cõi
kia
cây bảy báu
Khi
gió
thổi cành cây
Lá
lá
hướng cùng nhau
Đồng
nói
pháp Không ngằn
Trong
cõi
nước ta kia
Tuổi
thọ
nào tính kể
Hiện
dùng
thời diệt độ
Mười
hai
kiếp pháp còn
Muốn
hay
kiếp ngắn dài
Hiền
kiếp
là một ngày
Tính
số
tháng ngày nay
Làm
thành
mười hai kiếp
Ba
loại
người các ngươi
Biết
công
đức ta không
Đến
cõi
Đông Phương kia
Tám
mươi
ức do tha
Nước
đó
là Bất Chung
Phật
hiệu
là Tịnh Giới
Đệ
tử
học ta nay
Phủi
tóc
đắp cà sa
Gối
quỳ
nghe thánh pháp
Phật
đó
rõ tâm ta
Các
hàng
chúng sanh ấy
Thấy
ta
khoác pháp phục
Với
thế
dục chẳng màng
Đồng
lòng
vui nẻo đạo
Oai
nghi
tiết lễ đủ
Cấm
giới
giữ chẳng sai
Đang
khi
ta nằm ngủ
Thấy
kẻ
dửng áo long
Đây
bởi
túc mạng mình
Cùng
với
người thệ nguyện
Lìa
dục
không vướng bận
Chẳng
có
tướng diệt sanh
với
phạm
hạnh chuyên hành
Bởi
ta
thần lực Phật
Từ
chết
được khỏi chết
Chẳng
biết
niệm điều này
Nào
hiểu
sinh rồi diệt
Nơi
năm
nẻo vần xoay
Pháp
cam
lồ tứ thánh
Đủ
no
hết thảy người.
Ngay khi Đức Thế Tôn nói kệ này, có một trăm bảy mươi ức chúng sanh thấy hàng đệ tử cạo bỏ râu tóc và nhận Thánh giáo, mong ước muốn được pháp quán tư duy, không thích thế tục, xuất gia làm sa môn. Đức Phật bảo, ba loại chúng sanh cách phương đông bắc của ta hiện giờ vô hạn, vô lượng hằng hà sa số. Có cõi nước kia tên là Thanh Minh, Đức Phật tên là Minh Nguyệt, người dân nước kia không có dâm, nộ, si, cũng không có kiêu mạn, ngã mạn hoặc biếng nhác, chúng sanh nước kia hằng thích an tĩnh, độc tọa, không bị hệ niệm phát khởi, không còn loạn tưởng cho dù sấm nổ sét đánh tâm vẫn chẳng dao động.
Lúc này Đức Diệu Giác Như Lai đi đến cõi kia rồi ngồi trên đất, chúng sanh cõi kia thấy ngài tọa thiền đều cùng tọa thiền. Đức Phật dùng thẩn lực để quán pháp Vô Tướng. Ngài phóng vào tâm chúng sanh giống như bàn tay di chuyển sự vật khiến cho chúng sanh kia biết được hữu thường và vô thường, biết được nỗi khổ của sanh, già, bệnh, chết. Hoặc có chúng sanh biết rõ hữu niệm, hoặc có chúng sanh biết rõ hữu trì, hoặc có chúng sanh biết rõ hữu an, hoặc có chúng sanh biết rõ tự thủ.
Đức Phật hầu muốn hiện công đức của Tứ Thiền, liền ở trước mặt ba loại chúng sanh, Ngài từ Sơ Thiền rổi vào ra Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Từ Tứ Thiền trở lại Tam Thiền, Nhị Thiền, Sơ Thiền. Từ Sơ Thiền đến Tam Thiền, từ thiền thứ tư đến thiền thứ hai, đây gọi là Sư Tử Phấn Chấn Tam Muội.
Bấy giờ Đức Thế Tôn hiện thần túc Tam Muội Ý Định này, độ chúng sanh nhiều vô số kể, đều cùng đồng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có vị mong muốn quả Tu Đà Hoàn, quả A La Hán…được pháp Nhãn Tịnh đắc Bích Chi Phật đạo.
Ngay lúc bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai thoáng chốc biến mất.