Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm thứ chín: Không Sanh Diệt

29 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9241)
Phẩm thứ chín: Không Sanh Diệt

KINH TRUNG ẤM
Hán dịch: Sa môn Trúc Phật Niệm 
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang

KINH TRUNG ẤM: QUYỂN HẠ 

PHẨM THỨ CHÍN
KHÔNG SANH DIỆT 

Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai như muốn dời đến các cõi nước của các Phật mới bảo với ba loại chúng sanh phát tâm hướng đến cầu đạo Niết Bàn: Nay ta bây giờ nói pháp cho các ngươi, nếu có điều nghi ngờ thì cứ hỏi ta, Niết bàn có sanh có diệt không chứ?

Lúc này ba loại chúng sanh nghe lời nói của Như Lai mới bạch Phật rằng: Từ cõi Dục lên đến cõi Phi Tưởng, Phi Phi Tuởng phát tâm hướng về Đại Thừa Bất Tư Nghì pháp, chưa từng nghe có pháp hữu vi, vô vi, gì là hữu dư, gì là vô dư, thế nào là pháp thượng nhơn, thế nào là pháp phi thượng nhơn?

Bấy giờ Đức Thế Tôn phân biệt Cú Nghĩa, Tự Nghĩa và Vô Tướng Nghĩa cho ba loại hữu tình.

Thần lực Như Lai có ba mươi hai pháp, những gì là ba mươi hai? Nhớ được căn bổn đã sanh của mình trong kiếp quá khứ. Biết được túc nghiệp của mình trong mỗi đời sống, chết kia sống đây, chết đây sống kia. Dùng nhãn thức thông quán sát như thấy hạt châu trong lòng bàn tay. Dùng nhĩ thông nghe được những tiếng như con nhặn đi, con ruồi bò…và tất cà các tiếng nhỏ nhất đều nghe hết thảy. Xưa có ba cõi, nay không ba cõi, các người phát tâm ngộ mỗi mỗi đều sai khác, trung gian đều thay đổi. Thế nào là ba cõi? Thế nào chẳng phải ba cõi?

Bấy giờ lúc Đức Thế Tôn nói điều này, ba loại chúng sanh lại sanh nghi ngờ. Lúc ấy Đức Thế Tôn biết điều suy nghĩ của tâm chúng sanh kia là muốn được nghe Ngài nói pháp Quán Vô Tướng, nên dùng kệ nói rằng:

Tại sao gọi là đầu? 
Tại sao gọi là chân?
Tại sao gọi là hoa? 
Tại sao gọi là quả? 
Mạng người ở cái đầu 
Chết ra tro bụi đất 
Gốc cây, trăm hoa cỏ 
Bứng bỏ gốc nào sanh 
Quán các pháp tướng này 
Không đầu cũng chẳng chân 
Pháp hữu dư, vô dư 
Như đây mà hiểu được 
Nếu cho có Niết Bàn 
Thân mạng ta hiện còn 
Nếu nói không Niết Bàn 
Nơi nào còn ba loại 
Nên Phật dùng Thần Lực 
Khiến người rõ hữu, vô 
Ta xem ba cõi khổ 
Vừa có cũng vừa không 
Niệm trước khác niệm sau 
Thân trước khác thân sau 
Vô số kiếp ta qua 
Cất chân vào đối đãi 
Ở đó khởi đại bi 
Nhị thừa đâu bước nổi 
Lúc ta khởi đại bi 
Thấy kẻ khổ ba đường 
Như mẹ hiền nuôi con 
Không gì không no đủ 
Xưa ta chỉ bố thí 
Nay được theo điều mong 
Bảy báu các kỳ trân 
Khởi tâm tức thời được 
Huống gì bốn đẳng cụ 
Sáu độ cứu chúng sanh 
Ai rành rẽ điều này 
Chỉ Phật-Phật thấy biết 
Nay Đang nói với ngươi 
Hữu dư, vô phân rõ 
Muốn đắc Quan Ngã Giới 
Ta mới dùng thần thức 
Đến nước kia làm Phật 
Tên gọi Thích Ca Văn 
Bảy mươi hai hằng hà 
Tây Nam Độ trang nghiêm 
Chỉ dùng Nhất Thừa hóa 
Không Bích Chi, Thanh Văn 
Cõi kia vui sướng lắm 
Khởi niệm liền hiện bày 
Chẳng giống cõi nước này 
Dâm, nộ, si trói buộc 
Một tiếng khắp bốn phương 
Người nghe, tìm…được độ 
Cõi kia cây bảy báu 
Khi gió thổi cành cây 
Lá lá hướng cùng nhau 
Đồng nói pháp Không ngằn 
Trong cõi nước ta kia 
Tuổi thọ nào tính kể 
Hiện dùng thời diệt độ 
Mười hai kiếp pháp còn 
Muốn hay kiếp ngắn dài 
Hiền kiếp là một ngày 
Tính số tháng ngày nay 
Làm thành mười hai kiếp 
Ba loại người các ngươi 
Biết công đức ta không 
Đến cõi Đông Phương kia 
Tám mươi ức do tha 
Nước đó là Bất Chung 
Phật hiệuTịnh Giới 
Đệ tử học ta nay 
Phủi tóc đắp cà sa 
Gối quỳ nghe thánh pháp 
Phật đó rõ tâm ta 
Các hàng chúng sanh ấy 
Thấy ta khoác pháp phục 
Với thế dục chẳng màng 
Đồng lòng vui nẻo đạo 
Oai nghi tiết lễ đủ 
Cấm giới giữ chẳng sai 
Đang khi ta nằm ngủ 
Thấy kẻ dửng áo long 
Đây bởi túc mạng mình 
Cùng với người thệ nguyện 
Lìa dục không vướng bận 
Chẳng có tướng diệt sanh 
với phạm hạnh chuyên hành 
Bởi ta thần lực Phật 
Từ chết được khỏi chết 
Chẳng biết niệm điều này 
Nào hiểu sinh rồi diệt 
Nơi năm nẻo vần xoay 
Pháp cam lồ tứ thánh 
Đủ no hết thảy người.

Ngay khi Đức Thế Tôn nói kệ này, có một trăm bảy mươi ức chúng sanh thấy hàng đệ tử cạo bỏ râu tóc và nhận Thánh giáo, mong ước muốn được pháp quán tư duy, không thích thế tục, xuất gia làm sa môn. Đức Phật bảo, ba loại chúng sanh cách phương đông bắc của ta hiện giờ vô hạn, vô lượng hằng hà sa số. Có cõi nước kia tên là Thanh Minh, Đức Phật tên là Minh Nguyệt, người dân nước kia không có dâm, nộ, si, cũng không có kiêu mạn, ngã mạn hoặc biếng nhác, chúng sanh nước kia hằng thích an tĩnh, độc tọa, không bị hệ niệm phát khởi, không còn loạn tưởng cho dù sấm nổ sét đánh tâm vẫn chẳng dao động.

Lúc này Đức Diệu Giác Như Lai đi đến cõi kia rồi ngồi trên đất, chúng sanh cõi kia thấy ngài tọa thiền đều cùng tọa thiền. Đức Phật dùng thẩn lực để quán pháp Vô Tướng. Ngài phóng vào tâm chúng sanh giống như bàn tay di chuyển sự vật khiến cho chúng sanh kia biết được hữu thường và vô thường, biết được nỗi khổ của sanh, già, bệnh, chết. Hoặc có chúng sanh biết rõ hữu niệm, hoặc có chúng sanh biết rõ hữu trì, hoặc có chúng sanh biết rõ hữu an, hoặc có chúng sanh biết rõ tự thủ.

Đức Phật hầu muốn hiện công đức của Tứ Thiền, liền ở trước mặt ba loại chúng sanh, Ngài từ Sơ Thiền rổi vào ra Nhị Thiền, Tam ThiềnTứ Thiền. Từ Tứ Thiền trở lại Tam Thiền, Nhị Thiền, Sơ Thiền. Từ Sơ Thiền đến Tam Thiền, từ thiền thứ tư đến thiền thứ hai, đây gọi là Sư Tử Phấn Chấn Tam Muội.

Bấy giờ Đức Thế Tôn hiện thần túc Tam Muội Ý Định này, độ chúng sanh nhiều vô số kể, đều cùng đồng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có vị mong muốn quả Tu Đà Hoàn, quả A La Hán…được pháp Nhãn Tịnh đắc Bích Chi Phật đạo.

Ngay lúc bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai thoáng chốc biến mất.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43071)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43849)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 42990)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48967)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39770)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53749)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36780)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40767)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49683)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47249)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27652)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25791)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29839)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27085)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24664)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21246)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23176)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23839)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22750)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29523)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20582)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34117)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24594)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29943)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20168)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20362)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15094)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23815)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34017)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23948)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29124)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60054)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27545)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68638)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24469)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26300)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20739)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19994)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27484)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46293)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25506)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29181)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188487)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27344)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31076)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33083)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23946)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25529)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26613)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36548)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27264)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30313)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37217)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23853)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36877)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27547)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28284)
Công Phu Khuya
(Xem: 24119)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant