Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Phẩm Dược thảo dụ

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9862)
5. Phẩm Dược thảo dụ

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

  QUYỂN THỨ BA
PHẨM "DƯỢC-THẢO-DỤ" THỨ NĂM


 1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-ha Ca-Diếp các vị đại đệ tử: "Hay thay! Hay thay! Ca-Diếp. Khéo nói được công đức chơn thật của đức Như-Lai. Đúng như lời các ông vừa nói; đức Như-Lai lại còn có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được".
 Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng sức trí huệ phương tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói thảy đều đến bậïc nhứt-thiết-trí (1) . Đức Như-Lai xem biết chỗ quy thú (2) của tất cả pháp; cũng rõ biết chỗ tâm sở hành (3) của tất cả chúng sanh không thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ cho các chúng sanh.

 2. Ca-Diếp! Thí như trong cõi tam-thiên đại-thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cõi tam-thiên đại-thiên (4) đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc chỉ vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.
 Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.

 3. Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, A-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam-thiên đại-thiên. Phật ở trong đại chúng mà xướng lời nầy:
 "Ta là đấng Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn thời làm cho chứng Niết-bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhứt-thiết-trí, bậc nhứt-thiết-kiến, là bậc tri đạo, bậïc khai đạo, bậïc thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, A-tu-la đều nên đến đây vì để nghe pháp vậy."
 Bấy giờ có vô số nghìn muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ đức Như-Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đãi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng được nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại ở trong các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo.Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.
 Đức Như-Lai nói pháp một tướng một vị, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc "nhứt-thiết-chủng-trí". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như-Lai hoặc thọ trì đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công đức tự mình không hay biết.

 Vì sao? Vì chỉ có Như-Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó: Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào?

 Dùng pháp gì để nhớ? Dùng pháp gì để nghĩ? Dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì đặng pháp gì?

 Chúng sanh ở nơi các bậïc, chỉ có đức Như-Lai thấy đó đúng như thật, rõ ràng không bị ngại. Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng trung hạ của nó.

 Đức Như-Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu nó, cho nên chẳng liền vì chúng vội nói " nhứt-thiết-chủng-trí."

 Ca-Diếp! Các ông rất là hy hữu, có thể biết rõ đức Như-Lai tùy cơ nghi nói pháp, hay tin hay nhận. Vì sao? Vì các đức Phật Thế-Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.

 Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 
 4. Pháp Vương phá các cõi

 Hiện ra trong thế gian

 Theo tánh của chúng sanh

 Dùng các cách nói pháp

 Đức Như-Lai tôn trọng

 Trí huệ rất sâu xa

 Lâu giữ pháp yếu này

 Chẳng vội liền nói ra

 Người trí nếu được nghe

 Thời có thể tin hiểu,

 Kẻ không trí nghi hối

 Thời bèn là mất hẳn.

 Ca-Diếp! Vì cớ đó

 Theo sức chúng nói pháp

 Dùng các món nhân duyên

 Cho chúng được chánh kiến

 Ca-Diếp! ông nên biết

 Thí như vừng mây lớn

 Nổi lên trong thế gian

 Che trùm khắp tất cả

 Mây trí huệ chứa nhuần

 Chớp nhoáng sáng chói lòa

 Tiếng sấm xa vang động

 Khiến mọi loài vui đẹp

 Nhậït quang bị che khuất

 Trên mặt đất mát mẻ

 Mây mù sa bủa gần

 Dường có thể nắm tới.

 Trận mưa đó khắp cùng

 Bốn phương đều xối xuống

 Dòng nước tuôn vô lượng

 Cõi đất đều rút đầy

 Nơi núi sông hang hiểm

 Chỗ rậm rợp sanh ra

 Những cây cối cỏ thuốc

 Các thứ cây lớn nhỏ

 Trăm giống lúa mộng mạ

 Các thứ mía cùng nho

 Nhờ nước mưa đượm nhuần

 Thảy đều tươi tốt cả.

 Đất khô khắp được rưới

 Thuốc cây đều sum sê

 Vừng mây kia mưa xuống

 Nước mưa thuần một vị

 Mà cỏ cây lùm rừng

 Tất cả các giống cây

 Hạng thượng trung cùng hạ

 Xứng theo tánh lớn nhỏ

 Đều được sanh trưởng cả.

 Gốc thân nhánh và lá

 Trổ bông trái sắc vàng

 Một trận mưa rưới đến

 Cây cỏ đều thấm mướt

 Theo thể tướng của nó

 Tánh loại chia lớn nhỏ

 Nước đượm nhuần vẫn một

 Mà đều được sum sê.

 5. Đức Phật cũng như thế

 Hiện ra nơi trong đời

 Ví như vầng mây lớn

 Che trùm khắp tất cả

 Đã hiện ra trong đời

 Bèn vì các chúng sanh

 Phân biệt diễn nói bày

 Nghĩa thật của các pháp

 Đấng Đại-Thánh Thế-Tôn

 Ở trong hàng trời người

 Nơi tất cả chúng hội

 Mà tuyên nói lời nầy:

 Ta là bậc Như-Lai

 Là đấng Lưỡng-Túc-Tôn (5)

 Hiện ra nơi trong đời

 Dường như vầng mây lớn

 Thấm nhuần khắp tất cả

 Những chúng sanh khô khao

 Đều làm cho lìa khổ

 Được an ổn vui sướng

 Hưởng sự vui thế gian

 Cùng sự vui Niết-bàn.

 Các chúng trời người nầy

 Một lòng khéo lóng nghe

 Đều nên đến cả đây

 Ra mắt đấng vô thượng.

 Ta là đấng Thế-Tôn

 Không có ai bằng được

 Muốn an ổn chúng sanh

 Nên hiện ra trong đời

 Vì các đại chúng nói

 Pháp cam lồ trong sạch

 Pháp đó thuần một vị

 Giải thoát Niết-bàn thôi.

 Dùng một giọng tiếng mầu

 Diễn xướng nghĩa nhiệm nầy

 Đều thường vì Đại-thừa

 Mà kết làm nhân duyên.

 Ta xem tất cả chúng

 Khắp đều bình đẳng cả

 Không có lòng bỉ thử

 Cũng không có hạn ngại

 Hằng vì tất cả chúng

 Mà bình đẳng nói pháp

 Như khi vì một người

 Lúc chúng đông cũng vậy.

 Thường diễn nói pháp luôn

 Từng không việc gì khác

 Ngồi, đứng, hoặc đến, đi

 Trọn không hề nhàm mỏi

 Đầy đủ cho thế gian

 Như mưa khắp thấm nhuần

 Sang hèn cùng thượng hạ

 Giữ giới hay phá giới

 Oai nghi được đầy đủ

 Và chẳng được đầy đủ

 Người chánh-kiến tà-kiến

 Kẻ độn căn lợi căn

 Khắp rưới cho mưa pháp

 Mà không chút nhàm mỏi.

 Tất cả hàng chúng sanh

 Được nghe pháp của ta

 Tùy sức mình lãnh lấy

 Trụ ở các nơi các bậïc

 Hoặc là ở trời, người

 Làm Chuyển-luân thánh-vương

 Trời Thích, Phạm, các vua

 Đó là cỏ thuốc nhỏ

 Hoặc rõ pháp vô lậu

 Hay chứng được Niết-bàn

 Khởi sáu pháp thần thông

 Và được ba món minh

 Ở riêng trong núi rừng

 Thường hành môn thiền định

 Chứng được bậc Duyên-giác

 Là cỏ thuốc bậc trung.

 Hoặc cầu bực Thế-Tôn

 Ta sẽ được thành Phật

 Tu hành tinh tấn, định

 Là cỏ thuốc bậc thượng

 Lại có hàng Phật tử

 Chuyên tâm nơi Phật đạo

 Thường thật hành từ bi

 Tự biết mình làm Phật

 Quyết định không còn nghi

 Gọi đó là cây nhỏ.

 Hoặc an trụ thần thông

 Chuyển bất thối pháp luân

 Độ vô lượng muôn ức

 Trăm nghìn loài chúng sanh

 Bồ-Tát hạng như thế

 Gọi đó là cây lớn.

 Phật chỉ bình đẳng nói

 Như nước mưa một vị

 Theo căn tánh chúng sanh

 Mà hưởng thọ không đồng

 Như những cỏ cây kia

 Được đượm nhuần đều khác

 6. Phật dùng món dụ nầy
 Để phương tiện chỉ bày

 Các thứ lời lẽ hay

 Đều diễn nói một pháp

 Ở nơi trí huệ Phật

 Như một giọt trong biển.

 Ta rưới trận mưa pháp

 Đầy đủ khắp thế gian

 Pháp mầu thuần một vị

 Tùy sức riêng tu hành,

 Như thể lùm rừng kia

 Và cỏ thuốc những cây

 Tùy giống lớn hay nhỏ

 Lần lần thêm sum suê

 Pháp của các đức Phật

 Thường dùng thuần một vị

 Khiến cho các thế gian

 Đều khắp được đầy đủ

 Lần lựa siêng tu hành

 Rồi đều được đạo quả.

 Hàng Thanh-văn, Duyên-giác,

 Ở nơi chốn núi rừng,

 Trụ thân hình rốt sau

 Nghe Phật Pháp được quả

 Nếu các vị Bồ-Tát

 Trí huệ rất vững bền

 Rõ suốt cả ba cõi

 Cầu được thừa tối thượng

 Đó gọi là cây nhỏ

 Mà được thêm lớn tốt.

 Lại có vị trụ thiền

 Được sức thần thông lớn

 Nghe nói các pháp không

 Lòng rất sanh vui mừng

 Phóng vô số hào quang

 Độ các loài chúng sanh

 Đó gọi là cây lớn

 Mà được thêm lớn tốt

 Như thế, Ca-Diếp này!

 Đức Phật nói pháp ra

 Thí như vầng mây lớn

 Dùng nước mưa một vị

 Đượm nhuần nơi hoa người

 Đều được kết trái cả.

 Ca-Diếp ông phải biết

 Ta dùng các nhân duyên

 Các món thí dụ thảy

 Để chỉ bày đạo Phật

 Đó là ta phương tiện

 Các đức Phật cũng thế

 Nay ta vì các ông

 Nói việc rất chân thật

 Các chúng thuộc Thanh-văn

 Đều chẳng phải diệt độ

 Chỗ các ông tu hành

 Là đạo của Bồ-Tát

 Lần lần tu học xong

 Thảy đều sẽ thành Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1273)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1034)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1314)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1709)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1788)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2088)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2079)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3775)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9194)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4489)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12779)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9827)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10722)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10490)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10695)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16230)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7099)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5078)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16505)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13834)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16558)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12095)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16277)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16185)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12059)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15640)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14010)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11994)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 14972)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13105)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14508)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20653)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10923)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14331)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20337)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14726)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12032)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15252)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11045)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10487)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12435)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14271)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16788)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11549)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11317)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12031)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52050)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15437)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13944)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11413)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13142)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12752)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant