Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11874)
Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân


PHẬT NÓI KINH NHẤT THIẾT LƯU NHIẾP THỦ NHÂN


Đại Chánh Tân Tu số 0031 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Sa môn An Thế Cao

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy:

Một thời Phật tại Pháp Nghị tư duy, Lưu quốc tụ hội, nước Câu Lưu. Bấy giờ Phật bảo các Tỳ kheo; các Tỳ kheo thưa: “Xin vâng”, rồi các Tỳ kheo theo đức Phật để nghe dạy. Ðức Phật bèn dạy:

-Người có trí, có kiến, này Tỳ kheo, nên các lậu được tận diệt, chứ không phải người không có trí, có kiến mà các lậu tận diệt được.

Này Tỳ kheo, sao gọi là người có trí, có kiến mới khiến các lậu được tận diệt, chứ người không trí, không kiến thì các lậu không thể tận diệt được? Ðó là do có chánh tư duy (bổn quán) hay không chánh tư duy (phi bổn quán) mà thôi. Nếu không chánh tư duy thì dục lậu chưa sanh sẽ phát sanh, dục lậu đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậu (hữu lưu) và vô minh lậu chưa sanh thì liền sanh, hữu lậuvô minh lậu đã sanh liền tăng trưởng. Nhưng người ngu si, này Tỳ kheo, kẻ thế gian không nghe (chánh pháp), không thấy bậc trí tuệ, cũng không theo bậc trí tuệ để nghe chánh pháp, cũng không theo bậc trí tuệ để được giáo giới, cũng không theo bậc trí tuệ để được phân biệt hiểu rõ. Do đó mới không có chánh tư duy (phi bổn niệm) nên khiến cho dục lậu chư sanh liền sanh, dục lậu đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậuvô minh lậu chư sanh liền sanh, đã sanh liền tăng trưởng. Do không biết, không hiểu cho nên pháp không đáng ghi nhớ thì lại ghi nhớ, còn pháp nên ghi nhớ thì lại không ghi nhớ. Do vì pháp đáng ghi nhớ mà không ghi nhớ, pháp không đáng ghi nhớ mà lại ghi nhớ, nên ái lậu chưa sanh liền sanh, ái lậu đã sanh liền tăng trưởng; chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu liền sanh; đã sanh hữu lậu, vô minh lậu liền tăng trưởng. Người nghe đệ tử Tỳ kheo đạo đức, nhờ gặp được bậc trí tuệ, theo bậc trí tuệ để thọ giáo, cũng theo bậc trí tuệ để phân biệt hiểu rõ, liền biết pháp như thật. Nếu không chánh tư duy (phi bổn niệm) thì ái lưu (dục lậu) chưa sanh liền sanh, ái lưu đã sanh liền tăng trưởng, chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu liền sanh; đã sanh hữu lậu, vô minh lậu liền tăng trưởng. Nếu có chánh tư duy (bổn niệm) thì dục lậu chưa sanh liền không sanh, đã sanh liền xả bỏ. Chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu thì không sanh, đã sanh liền xả bỏ. Nếu biết như thật như vậy thì đối với pháp không nên ghi nhớ liền không ghi nhớ, đối với pháp nên ghi nhớ liền ghi nhớ. Nhờ đối với pháp không nên ghi nhớ thì không ghi nhớ, pháp nên ghi nhớ thì ghi nhớ nên khiến cho dục lậu chưa sanh liền không sanh, đã sanh liền xả bỏ, hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh thì không sanh, đã sanh liền xả bỏ.

Này Tỳ kheo, có bảy pháp đoạn trừ lậu, phiền não nóng bức và ư sầu. Những gì là bảy? Này Tỳ kheo, hữu lậu được đoạn bởi kiến, hữu lậu được đoạn bởi nhiếp thủ, hữu lậu được đoạn bởi xa lìa, hữu lậu được đoạn bởi dụng, hữu lậu được đoạn bởi nhẫn, hữu lậu được đoạn bởi hiểu, hữu lậu được đoạn bởi ghi nhớ.

Này Tỳ kheo, thế nào là hữu lậu được đoạn bởi kiến? Hãy lắng nghe, này Tỳ kheo, kẻ thế gian ngu si không nghe chánh pháp, không gặp bậc hiền giả, cũng không theo hiền giả để được khai mở, cũng không theo bậc hiền giả để được giáo giới khai mở, do đó đối với pháp không nên ghi nhớ: “Ta có đời trước chăng? Ta không có đời trước chăng? Ðời trước ta làm những gì? Ðời trước ta như thế nào? Ta sẽ có đời vị lai chăng? Ta sẽ không có đời vị lai chăng? Ðời vị lai ta sẽ như thế nào? Ðời vị lai ta sẽ làm gì? Tự nghi thân ta là gì? Con người từ đâu mà đến, rồi sẽ đi về đâu? Cốt lõi của vấn đề này là thế nào?”. Do không chánh tư duy như vậy, trong sáu tà kiến phát sanh, theo đó một tà kiến khởi lên cho rằng: “Quả thật có thân (ngã) này”, “Quả thật không có thân này”. Ðó là nghi sanh, sanh ra kế chấp “thân (ngã)thấy là thân”. Như vậy nghi sanh, sanh ra kế chấp: “Thân là ngã của ta”, hoặc sanh nghi: “Thân sanh tương kiến thân”, hoặc sanh nghi: “Cái không phải thân thấy là thân”, hoặc sanh nghi chấp rằng: “Ðó chính là thân của chính ngã, nó có thể biết, có thể nói, có thể hành động, có thể cảm thọ, có thể nâng lên, có thể đứng dậy, nơi nơi, chốn chốn đã tạo tác, hành động thiện ácthọ tội, nó chấm dứt không sanh hay cũng sanh thì cũng vậy”.


Này Tỳ kheo, bị kiết sử buộc chặt, bị kiết sử (tà kiến) nghi trói buộc, bị ác nghi bất chánh kiến lay động. Này Tỳ kheo, người thế gian không nghe chánh pháp, do đó khổ tập hiện hữu, do đó sự sanh phát hiện. Bậc đa văn Tỳ kheo dạy (đạo) đệ tử: “Ðây là khổ phải nên biết, đây là tập phải nên biết, đây là tận diệt phải nên biết, đây là khổ diệt hành linh diệt phải nên biết”. Biết như vậy rồi, thấy như vậy, ba kiết tận trừ:

1. Thân kiết

2. Nghi kiết

3. Hạnh nguyện kiết.

Do vì ba kiết đã tận trừ liền theo đạo được chuyên nhất, không còn đọa vào ác xứ nữa, liền được thoát khỏi thế gian, ở nhân gian hay thiên thượng không quá bảy lần thọ sanh nữa. Sau bảy lần thọ sanh liền hết khổ. Nếu Tỳ kheo không tri, không kiến liền sanh dục lậu, phiền não ưu sầu. Nếu có tri kiến thì đoạn trừ dục lậu, phiền não ưu sầu, làm cho không còn hiện hữu nữa. Ðó là Tỳ kheo nhờ Kiến mà đoạn trừ hữu lậu.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ thủ? Ðó la đa văn Tỳ kheo thực hành khi mắt thấy sắc thâu nhiếp nhãn căn để tự phòng hộ, thực hành pháp quán (ố lộ) bất tịnh, nương theo chánh tư duy. Này Tỳ kheo, nếu không phòng hộ nhãn căn, thực hành pháp quán bất tịnh nương theo chánh tư duy thì liền sanh hữu lậu buồn lo, nếu có thâu nhiếp nhãn căn, đình chỉ tâm, nhờ chánh tư duy quán bất tịnh thì phiền não, sầu lo sẽ không có. Ðó là Tỳ kheo đoạn được hữu lậu nhờ Thủ. Ðối với tai, mũi, miệng, thân, ý cũng lại như vậy.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Tỵ (tránh né)? Ðó là đa văn Tỳ kheo thực hành cần phải tự phòng thủ, tránh né voi dữ, ngựa chứng, trâu điên, chó dữ, rắn độc, đường hầm hiểm, cây độc, khe độc, nguy hiểm, ao sâu, núi dốc, nơi bất an, sông ngòi, khe sâu, ác tri thức, bạn ác, kẻ mang điều ác, kẻ thọ nhận điều ác, chỗ ác, ngọa cụ để chỗ ác. Này hiền giả, những thứ đó làm cho người không nghi ngờ khiến cho nghi ngờ. Như vậy, Tỳ kheo cần phải tránh né những chỗ như trên đã nói, nếu không xa lìa liền sanh phiền não ưu sầu, nếu xa lìa thì phiền não ưu sầu sẽ không còn nữa. Ðó gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Tỵ.

Sao gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ dụng? Ðó là đa văn Tỳ kheo thực hành khi dùng y phục chẳng phải để khoe đẹp, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng chỉ vì khiến cho thân không bị muỗi mòng, gió, nắng, các loại độc tấn công, sanh ra loạn ý, nên cần phải tự phòng thủ. Khi ăn không vì để vui chơi, không do tham lam, không vì để mạnh mẽ, không vì để cho đoan chánh, nhưng chỉ vì để cho thân được tồn tạitu hành. Nhờ sự cúng dường để đoạn trừ bệnh cũ không tái phát, bệnh mới không sanh, được hết bệnh, không tạo tội, có sức, an ổn tu hành. Khi thọ dụng ngọa cụ, giường, chiếu không phải để khoe khoang, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng chỉ vì khiến cho thân này khỏi bị mệt mỏi, đau khổ kịch liệt. Khi thọ dụng thuốc thang không phải để khoe khoang, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng mục đích chỉ để khiến cho thân này chấm dứt được những thống khổ kịch liệt, đau đớn dữ dội, thật khó chịu, nhờ thuốc thang đó mà được cứu thoát. Nếu Tỳ kheo không dùng nó thì liền sanh phiền não ưu sầu, nếu dùng nó thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh nữa. Này Tỳ kheo, đó gọi là đoạn trừ hữu lậu nhờ Dụng.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Nhẫn? Ðó là đa văn Tỳ kheo khi tu hành phát hạnh tinh tấn để đoạn trừ ác pháp, thọ pháp thanh tịnh, nỗ lực, ra sức, kiên trì phương tiện tinh tấn, không bỏ pháp thanh tịnh. Thà cho thân này da thịt, xương khô kiệt, nát tan cho đến tủy, mỡ, da đều tiêu hủy tất cả, nhưng sự phát tâm tinh tấn vẫn còn. Hãy khiến cho ta kiên tâm can đảm, phương tiện tinh tấn, chừng nào chưa đạt được mục đích mong muốn thì không được nửa chừng mà bỏ tinh tấn. Này Tỳ kheo, hãy nên chịu đựng sự nóng lạnh, đói khát, muỗi mòng, gió nóng, mặt trời bức bách, nghe lời độc ác không thể nói được, người có ý kiêu mạn đối với mình cũng có thể nhẫn chịu được. Nếu thân bị ngộ độc đau đớn, nhức nhối kịch liệt, bất khả ý, không sao chịu nỗi nhưng vẫn nhẫn được. Nếu Tỳ kheo không nhẫn nại thì sanh ra phiền não, sầu lo; nếu nhẫn chịu được thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh nữa. Này Tỳ kheo, đó gọi là hữu lậu được đoạn trừ nhờ Nhẫn nại.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Hiểu? Hãy nghe! Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã sanh dục mà không đoạn trừ, không xả ly, đã sanh sân hận mà không đoạn trừ, không xả ly, đã sanh sát sanh, dối láo, trộm cắp mà không đoạn trừ, không xả ly. Này các Tỳ kheo, nếu không hiểu (xả ly) thì sanh ra phiền não, ưu sầu, nếu đã hiểu mà xả ly thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh ra nữa. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hiểu.

Sao gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hành tăng (tư duy)? Hãy lắng nghe, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo hãy tư duy về giác chi thứ nhất là Niệm. Hãy ngồi một mình, nương vào sự xa lìa pháp ác, phân biệt giác chi cũng như vậy, tinh tấn giác chi cũng như vậy, hỷ giác chi cũng như vậy, ý giác chi cũng như vậy, định giác chi cũng như vậy, cho đến quán sát về khước (xả) giác chi cũng như vậy. Nếu các Tỳ kheo không thực hành pháp tư duy thì liền sanh phiền não, sầu lo. Nếu có thực hành tư duy thì không sanh phiền não ưu sầu nữa. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hành tăng (tư duy).

Này Tỳ kheo, nếu hữu lậu nhờ Kiến để được đoạn trừ thì hãy dùng Kiến để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Thủ nhiếp để được đoạn trừ thì hãy dùng Thủ nhiếp để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Tỵ để được đoạn trừ thì hãy dùng Tỵ để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Dụng để được đoạn trừ thì hãy dùng Dụng để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Nhẫn để được đoạn trừ thì hãy dùng Nhẫn để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Hiểu để được đoạn trừ thì hãy dùng Hiểu để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Hành tăng để được đoạn trừ thì hãy dùng Hành tăng để đoạn. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ tất cả lậu, đã hoại diệt sự ác ái của thế gian, đã được thoát khỏi thế gian, xả bỏ sự trói buộc, được chỗ ách yếu lìa khổ.

Ðức Phật thuyết như vậy, các Tỳ kheo nghe đức Phật dạy, hoan hỷ thực hành pháp vượt khỏi thế gian xong, liền đắc đạo

PHẬT NÓI KINH NHẤT THIẾT LƯU NHIẾP THỦ NHÂN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14708)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13235)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12794)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13694)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13655)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13284)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13844)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13649)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12540)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14783)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12840)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12394)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14968)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13408)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15080)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13180)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12548)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13419)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13370)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12724)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12041)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11922)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12603)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11436)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11733)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11117)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13244)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13125)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11532)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12125)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12328)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11902)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12693)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12324)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12147)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12206)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11960)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11913)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11164)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11322)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12344)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12427)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11968)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12921)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11995)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12570)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12966)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13897)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12701)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14831)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12149)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12846)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12736)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14712)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12703)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15346)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12511)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13175)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14187)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15481)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant