Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Số

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14959)
Kinh Số


PHẬT NÓI KINH SỐ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0070 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở Ðông viên, Lộc Tử Mẫu giảng đường, nước Xá vệ.

Bấy giờ Bà la môn toán số, sau bữa trưa thong dong tản bộ đi đến chỗ đức Thế Tôn, khi đến chào hỏi, rồi ngồi qua một bên. Bà la môn bạch đức Thế Tôn:

–Thưa Cù Ðàm, tôi có điều muốn hỏi, nếu ngài cho phép tôi mới dám hỏi.

Ðức Thế Tôn nói:

–Ngươi cứ hỏi, này Bà la môn, theo ý ngươi thích.

Toán số Bà la môn thưa:

–Thưa Cù Ðàm, Lộc (Tử Mẫu) giảng đường này được xây cất theo thứ lớp và thành tựu theo thứ lớp. Này Cù Ðàm, cầu thang trong Lộc giảng đường này bắt đầu lên một nấc, như vậy rồi đến hai, ba, bốn. Này Cù Ðàm, như vậy giảng đường Lộc lần lượt theo thứ tự đi lên. Này Cù Ðàm, sự điều phục voi này cũng lần lượt dạy dỗ và con voi cũng theo thứ tự học. Nghĩa là tay cầm móc câu (mà dạy) vậy. Này Cù Ðàm, sự cỡi ngựa này cũng thứ lớp dạy dỗ và thứ lớp học tập, nghĩa là do dây cương vậy. Này Cù Ðàm, dòng Sát lợi cũng lần lượt dạy dỗ và lần lượt học tập, nghĩa là cầm cung tên. Này Cù Ðàm, Bà la môn này cũng thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp học tập, nghĩa là học thơ, văn chương. Này Cù Ðàm, chúng tôi học toán số, nhờ toán số mà mưu sinh. Nếu có đệ tử học toán số, đó là các trẻ em, bắt đầu được dạy từng con số một, rồi hai, hai rồi ba, hai, ba rồi mười, một trăm, hoặc tăng lên thật nhiều. Như vậy, này Cù Ðàm, chúng tôi học toán số, nhờ toán số mưu sinh, thứ lớp dạy, thứ lớp học. Ðó là học toán số. Sa môn Cù Ðàm, với pháp luật này được dạy như thế nào và được học như thế nào để có thể biết được (sự thành tựu)?

Ðức Thế Tôn nói:

–Này (Toán) số Mục Kiền Liên, nếu nói như vậy là những gì ngươi tuyên thuyết chăng? Ðó là thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp học tập, giữ giới, dạy học? Này Mục Kiền Liên, nếu nói như vậy là thứ lớp nói thì đó chính là pháp luật của ta vậy. Vì sao? Này Mục Kiền Liên, vì đối với pháp luật của ta thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp hành giới, thứ lớp học tập. Này Mục Kiền Liên, đó là đối với Tỳ kheo mới học đạo không lâu, đến với pháp luật này cũng chưa được nghe đức Như Lai dạy. Ta dạy: “Này Tỳ kheo, với thân phải làm những việc trong sạch, miệng và ý phải làm những việc trong sạch”. Này Mục Kiền Liên, nếu thân, miệng và ý làm những việc trong sạch. Ðức Như Lai vô thượng dạy thêm: “Này Tỳ kheo, hãy quán nội thân như thân hành chỉ; cho đến hãy quán thống, ý, pháp như pháp hành chỉ”. Này Mục Kiền Liên, đó là Tỳ kheo quán nội thân như thân hành chỉ; cho đến hãy quán thống, ý, pháp như pháp hành chỉ rồi, đức Như Lai vô thượng dạy thêm: “Này Tỳ kheo, hãy hộ trì căn môn, tự giữ gìn ý niệm, tất đều tự hành tinh tấn. Nếu mắt thấy sắc, đừng chấp thủ sắc tưởng, đừng đắm nhiễm tưởng người khác. Ðó là nhờ nhân duyên hỗ trợ nên thủ hộ nhãn căn, tâm sẽ không bị sỉ nhục, tham ưu, lo lắng, không tạo pháp ác bất thiện; ở trong đó học thủ hộ nhãn căn. Cũng vậy, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn, thân ý biết pháp, đừng chấp thọ tưởng, đừng chấp thọ tưởng người khác. Ðó là nhờ nhân duyên hổ trợ nên thân, ý căn này không bị sỉ nhục, tham ưu và lo lắng, không có pháp bất thiện, không trụ nơi ý, kẻ ấy ở trong đó học cách thủ hộ ý căn”.

Này Mục Kiền Liên, nếu Tỳ kheo đầy đủ các căn môn, tự thủ hộ tâm ý, ý không nhiễm, thủ hộ ý, ý cùng niệm đồng hành tinh tấn. Khi mắt thấy sắc cũng không thọ tưởng, không thọ tưởng người khác. Ðó là nhờ tăng thượng duyên vậy, nên nhãn căn được đầy đủ, không bị sỉ nhục, tham ưu lo lắng, không ở trong pháp ác bất thiện. Kẻ ấy học cách tự thủ hộ nhãn căn; cũng vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý biết pháp, cũng không thọ tưởng, cho đến kẻ ấy ở trong đó học cách tự thủ hộ ý căn. Ðức Như Lai, bậc vô thượng dạy tiếp: “Này Tỳ kheo, hãy hành quán các lỗi lầm đã qua, hãy quán biết lúc co lúc duỗi, đắp y Tăng già lê, ôm bát, lúc đi, lúc đứng, lúc ngồi, hoặc ngủ hoặc thức, hoặc nói hoặc im, thảy đều biết rõ”.

Này Mục Kiền Liên, nếu Tỳ kheo đối với các lỗi lầm đã qua, cho đến hành đối với đẳng hành rồi, đức Như Lai bậc vô thượng lại dạy thêm: “Này Tỳ kheo, khi biết giường nằm rồi mới thọ dụng, hoặc ở nơi vắng vẻ, hoặc ở dưới gốc cây, chỗ trống không vắng vẻ, ở trong sườn núi, động đá, ngồi trên tòa cỏ giữa trời, giữa rừng, giữa gò mả. Kẻ ấy hoặc ở nơi vắng vẻ, hãy trải ni sư đàn, ngồi kiết già, chánh thân chánh nguyện, nhiếp niệm ở trước mặt, đoạn trừ tham lam tật đố, ý không sân hận, đừng thấy tài vật của người khác phát sanh lòng tham, nghĩa là mong vật của người khác trở thành của mình, hãy tịnh trừ ý tham ấy. Cũng vậy, đối với sân hận, giải đãi, ngủ nghĩ, trạo hối, hổ thẹn, trừ nghi, tham, lìa tà, lìa nghi, lìa các pháp do dự, hãy thanh tịnh ý nghi. Người ấy đoạn trừ ngũ cái, và ý đắm trước, trí tuệ yếu kém, đã giải thoát dâm, cho đến an trụ tứ thiền.

Như vậy, này Mục Kiền Liên, Tỳ kheo đã giải thoát dâm cho đến an trụ tứ thiền, thì này Mục Kiền Liên, đức Như Lai vì để cho Tỳ kheo sơ học được nhiều lợi ích, nghĩa là Ngài dạy học, giáo hạnh. Này Mục Kiền Liên, nếu đối với các Tỳ kheo thượng tôn mà các vua đều biết, không giải đãi, thực hành phạm hạnh, đức Như Lai bậc vô thượng dạy rằng: “Hãy thành tựu rốt ráo, diệt sạch hữu lậu”.

Toán số Mục Kiền Liên thưa:

–Này Sa môn Cù Ðàm, đối với tất cả đệ tử, Ngài dạy như vậy, phải học như vậy, tất cả đều đạt được cứu cánh, đạt Niết bàn chăng?

Thế Tôn đáp:

–Này Mục Kiền Liên, không phải nhất định đều đạt được. Hoặc có người không đạt được, hoặc có người đạt được.

Toán số Mục Kiền Liên lại hỏi:

–Này Cù Ðàm, do nhân gì duyên gì nói rằng có Niết bàn, và cầu Niết bàn đạo, và Sa môn Cù Ðàm hiện tại là bậc Ðạo sư mà có Tỳ kheo được dạy dỗ như vậy, được học tập như vậy, mà có người đạt cứu cánh Niết bàn, nhưng người khác thì không đạt?

Ðức Thế Tôn nói:

–Do đó, này Mục Kiền Liên, nay ta lại hỏi ngươi, tùy theo sự hiểu biếttrả lời ta. Này Mục Kiền Liên, ý ngươi nghĩ sao? Ngươi có biết rõ con đường về La duyệt kỳ chăng?

Thưa rằng:

–Thưa vâng, Cù Ðàm, tôi biết rõ con đường về La duyệt kỳ.

Ðức Thế Tôn nói:

–Nếu có một người muốn đến La duyệt kỳ để yết kiến vua, kẻ ấy đến chỗ ngươi nói rằng: “Này Bà la môn Mục Kiền Liên, người biết rõ toán số, con đường đi đến La duyệt kỳ, tôi muốn hỏi đường đến La duyệt kỳ để yết kiến vua”. Ngươi sẽ nói với người ấy rằng: “Ngươi nên theo con đường chánh này mà đi, sẽ đến thôn kia, rồi từ thôn ấy đến chỗ kia. Lần lượt như thế sẽ đến thành La duyệt kỳ (Vương xá). Ở thành La duyệt kỳ có những khu vườn xinh đẹp, rừng cây tươi tốt, đất bằng phẳng, ao tắm đẹp, nước sông chảy dài mát lạnh, an ổn khoái lạc. Hãy biết như vậy, hãy thấy như vậy”. Người ấy sau khi nghe ngươi chỉ dẫn tường tận rồi, theo lời chỉ dẫn, theo con đường đó đi thẳng, kẻ ấy đi thẳng rồi lại theo một con đường trái ngược. Cho nên đối với những khu vườn xinh đẹp cho đến sự an ổn khoái lạc của La duyệt kỳ, kẻ ấy cũng chẳng biết, kẻ ấy cũng chẳng thấy.

Lại có người khác đến yết kiến vua, muốn tới La duyệt kỳ, kẻ ấy đến chỗ ngươi hỏi rằng: “Này Bà la môn Mục Kiền Liên, ngài biết rõ toán số, chỉ cho tôi con đường đến La duyệt kỳ, tôi muốn đến La duyệt kỳ, xin ngài chỉ đường cho tôi”. Ngươi sẽ nói rằng: “Ngươi theo con đường thẳng này mà đến, đi thẳng đến một thôn, đến thôn rồi tới chỗ kia, ngươi cứ đi theo thứ lớp như vậy sẽ đến La duyệt kỳ. Ở La duyệt kỳ có vườn cây xinh đẹp cho đến được an ổn khoái lạc. Người sẽ biết như vậy, thấy như vậy”.

Này Mục Kiền Liên, do nhân gì duyên gì trong khi có thành La duyệt kỳ, có con đường đi đến thành La duyệt kỳ, và có ông là người chỉ đường, nhưng người thứ nhất nghe lời ông chỉ dẫn, lại không làm đúng, theo con đường lầm lẫn rồi trở lui? Cho nên những khu vườn, đất bằng phẳng cho đến được an ổn khoái lạc ở La duyệt kỳ, tất cả cảnh người ấy đều không biết, không thấy gì cả. Còn người thứ hai nghe theo lời dạy, vâng theo sự hướng dẫn, đi đúng đường, lần lượt đi đến thành La duyệt kỳ. Cho nên các cảnh ở La duyệt kỳ, khu vườn xinh đẹp, đất bằng phẳng ... cho đến được an ổn khoái lạc, người ấy biết hết và thấy hết.

Toán số Mục Kiền Liên đáp:

–Này Cù Ðàm, tôi biết làm sao được, có thành La duyệt kỳ đó, có con đường dẫn đến thành La duyệt kỳ. Tôi chỉ làm người giáo thọ. Người thứ nhất không làm theo sự chỉ dẫn của tôi, theo con đường lầm lẫn để lui trở lại và những gì ở La duyệt kỳ như vườn đẹp, đất bằng, cho đến... được an ổn khoái lạc, người ấy đều không thấy, không biết. Còn người thứ hai kia nghe theo lời chỉ dẫn của tôi nên đi đúng con đường ấy, lần lượt đến được La duyệt kỳ. Những gì ở La duyệt kỳ như vườn đẹp, đất bằng, ... cho đến sự an ổn khoái lạc người ấy đều biết, người ấy đều thấy cả.

Ðức Thế Tôn nói rằng:

–Cũng vậy, này Mục Kiền Liên, ta cũng biết làm sao được, có Niết bàn đó, có con đường dẫn tới Niết bàn đó. Ta chỉ là Ðạo sư. Hoặc có Tỳ kheo làm theo sự chỉ dẫn như vậy, giáo lệnh như vậy, cho nên đạt được cứu cánh Niết bàn. Hoặc có Tỳ kheo không làm đúng như vậy nên không đạt được như vậy. Này Mục Kiền Liên, đó là Tỳ kheo kia đối với sự giáo thọ ấy, ở trong chúng của Thế Tôn được thọ ký, nghĩa là người ấy đạt được cứu cánh, dứt sạch hữu lậu.

Toán số Mục Kiền Liên thưa:

–Thưa Cù Ðàm, tôi đã hiểu. Bạch Cù Ðàm, tôi đã hiểu. Thưa Cù Ðàm, cũng như trên mảnh đất tốt có khu rừng Sa La, trong đó có người giữ rừng cây Sa La, siêng năng không lười biếng. Kẻ ấy tự dùng sức lực của mình, đối với gốc rễ cây Sa La tùy theo thời mà cuốc xới, chăm sóc, bón phân, tưới nước. Nếu có chỗ thấp thì lấy đất lấp cho đầy, nếu bên cạnh có cỏ thì nhổ đi. Nếu ở bên cây có cỏ bò dài, tệ ác, cong queo không ngay thẳng, đều phòng ngừa, nhổ sạch, tỉa đi. Nghĩa là người ấy vứt bỏ những cây cỏ mới mọc, chăm sóc hết sức những cây con, tùy thời tưới nước, bón phân cho cây, lấy nước tưới cây. Bạch Cù Ðàm, như vậy trên mảnh đất tốt rừng cây Sa La về sau càng sum sê to lớn. Bạch Cù Ðàm, cũng vậy, có người dua nịnh dối trá làm điều hư huyễn, bất tín, giải đãi, loạn chí, bất định, ác trí, ý loạn, các căn rối loạn, trì giới lơ là, không hết sức phân biệt hạnh Sa môn. Sa môn Cù Ðàm đối với những kẻ ấy không thể ở chung, không thể sống chung. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, những người như vậy là phá hoại phạm hạnh. Bạch Cù Ðàm, nếu có người không có dua nịnh, cũng không có ý tà, tín hành, tinh tấn, ý thường trụ nơi định, trí tuệ, thuận kính học giới, phân biệt nhiều về hạnh Sa môn. Bạch Sa môn Cù Ðàm, bậc vô sở trước có thể ở chung với những người ấy. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, những người như vậy, đối với bậc phạm hạnh, họ là ứng pháp thanh tịnh. Bạch Cù Ðàm, cũng như trong các loại hương bằng lõi cây, Ca La (trầm hương) là bậc nhất. Vì sao vậy? Thưa Cù Ðàm, vì trầm hương đối với các loại hương bằng lõi cây, nó là tối thượng. Bạch Cù Ðàm, cũng giống như trong các loại Sa La hương thì Xích Chiên đàntối thượng. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các loại Sa la hương thì Xích Chiên đàn là bậc nhất. Bạch Cù Ðàm, cũng như các loại thủy hoa thì hoa sen xanh là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các thủy hoa thì hoa sen xanhđứng đầu. Bạch Cù Ðàm, cũng như trong các thứ hoa trên mặt đất thì hoa Câu mâu ni bà lợi sư là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các loại hoa trên mặt đất thì hoa Bà lợi sư là đứng đầu. Bạch Cù Ðàm, cũng như giữa các luận thuyết thế gian, luận thuyết Sa môn Cù Ðàm là bậc nhất. Vì sao vậy? Vì luận thuyết của Sa môn Cù Ðàm có thể nhiếp phục tất cả học thuyết khác của ngoại đạo vậy. Bạch Thế Tôn, vì vậy cho nên nay con tự quy y phápTỳ kheo tăng. Bạch Thế Tôn, nay con xin thọ trì giới Ưu bà tắc. Kể từ hôm nay cho đến lúc mạng chung, con xa lìa sự sát sanh... nay con xin quy y Phật.

Ðức Phật thuyết như vậy, toán số Bà la môn Mục Kiền Liên nghe đức Phật dạy xong, vui mừng hoan hỷ.

 

PHẬT THUYẾT KINH SỐ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1275)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1034)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1314)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1711)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1788)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2089)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2081)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3775)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9194)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4492)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12230)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12781)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9829)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10724)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10492)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16231)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7102)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5079)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16507)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13836)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16560)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12096)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16281)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14327)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16186)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12682)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12061)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11785)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15643)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14011)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11995)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 14974)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13107)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14512)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20656)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13190)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10926)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14332)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20341)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14000)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14726)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12033)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15254)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11048)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10487)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12438)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14272)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16792)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11549)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11319)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12031)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52053)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15442)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13946)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11413)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13142)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12755)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant