Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tôn Thượng

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13202)
Kinh Tôn Thượng


PHẬT NÓI KINH TÔN THƯỢNG


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0077 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, nước Nguyệt Thị Tam tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, thành Xá vệ. Bấy giờ tôn giả Lô Da Cường Kỳ ở tại Thích Kỳ Sấu, trong hang A Luyện Nhã. Khi ấy tôn giả Lô Da Cường Kỳ sáng sớm thức dậy, ra khỏi hang động rồi đến chỗ đất trống để bày giường dây, trải tọa cụ xong ngồi kiết già.

Khi ấy có một vị trời hình sắc cực đẹp, vào lúc rạng đông đi đến chỗ Lô Da Cường Kỳ, đến xong đảnh lễ dưới chân tôn giả Lô Da Cường Kỳ rồi đứng qua một bên. Do ánh sáng của vị trời ấy chiếu sáng cả hang động, vị trời ấy đứng qua một bên rồi bạch với tôn giả Lô Da Cường Kỳ rằng:

–Này Tỳ kheo! Này Tỳ kheo, ngài có trì bài kệ Hiền Thiện và giải nghĩa bài kệ ấy được chăng?

Nói như vậy xong, tôn giả Lô Da Cường Kỳ đáp lại vị trời ấy rằng:

–Này vị trời, tôi không có trì bài kệ Hiền Thiện và giải nghĩa ý nghĩa bài kệ ấy được. Còn ngài, này vị trời, ngài có trì bài kệ Hiền Thiện và giải nghĩa được chăng?

Nói như vậy xong, vị trời ấy đáp lại tôn giả Lô Da Cường Kỳ:

–Này Tỳ kheo, tôi thọ trì bài kệ Hiền Thiện nhưng không giải nghĩa được.

–Vì sao vậy? Ngài thọ trì bài kệ Hiền Thiện nhưng không giải nghĩa được?

–Này Tỳ kheo, vào một thời, tôi nghe đức Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca Lan Ðà, thành La Duyệt Kỳ, ngài nói bài kệ Hiền Thiện này cho các Tỳ kheo:

Quá khứ đừng nhớ nghĩ

Tương lai chớ mong cầu.

Quá khứ đã mất rồi,

Tương lai thì chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại

Mỗi mỗi phải tư duy.

Ý niệm không bền lâu

Kẻ trí nên tự giác

Ðược rồi cần tinh tấn.

Bậc trí đâu lo chết

Tâm ta cứ miệt mài

Sự chết ai thoát được?

Giữ vững chắc như vậy,

Ngày đêm không xả bỏ.

Kẻ Hiền Thiện như vậy

Người nên quán như vậy.

Như vậy, này Tỳ kheo, tôi thọ trì bài kệ Hiền Thiện này mà không giải nghĩa được.

–Vậy thưa vị trời, ai thọ trì bài kệ Hiền Thiện và có thể giải nghĩa được?

–Này Tỳ kheo, đức Thế Tôn ở tại vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Ngài thọ trì bài kệ Hiền Thiện này và giải nghĩa được. Cho nên này Tỳ kheo, hãy theo đức Thế Tôn thọ trì bài kệ Hiền Thiện và hiểu ý nghĩa nó, hãy khéo suy nghĩ, nhớ đọc tụngthọ trì. Vì sao như vậy? Này Tỳ kheo, bài kệ Hiền Thiện và ý nghĩa của bài kệ là nghĩa, là pháp, đưa đến phạm hạnh, thành thần thông, cho đến con đường chí tôn, tương ưng với Niết bàn. Vị tộc tánh tử này tin và thích học đạo; tin và thích xuất gia, bỏ nhà học đạo, nên thọ trì bài kệ Hiền Thiện và ý nghĩa của bài kệ, phải khéo suy tư, nhớ nghĩ và phụng trì.

Vị trời ấy nói xong, đảnh lễ dưới chân tôn giả Lô Da Cường Kỳ, nhiễu quanh tôn giả Lô Da Cường Kỳ xong liền biến mất. Bấy giờ tôn giả Lô Da Cường Kỳ, lúc vị trời ấy đã đi không bao lâu, ngài đến Thích Kỳ Sấu để thọ tuế; thọ tuế qua ba tháng xong, đã may y rồi, mang bát đến thành Xá Vệ, tuần tự mà đi đến thành Xá Vệ, ngài dừng chân ở vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Khi ấy tôn giả Lô Da Cường Kỳ đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong, lạy dưới chân đức Phật rồi đứng qua một bên. Tôn giả Lô Da Cường Kỳ đứng qua một bên bạch đức Thế Tôn rằng:

–Thưa Thế Tôn! Một thời con ở tại Thích Kỳ Sấu, trong hang động tịch mịch. Thưa Thế Tôn, sáng sớm con thức dậy, ra khỏi hang, đến chỗ đất trống để bày giường dây, trải tọa cụ xong, con ngồi kiết già. Khi ấy có một vị trời hình sắc cực đẹp, vào lúc rạng đông đi đến chỗ con, đến rồi đảnh lễ dưới chân con, rồi đứng qua một bên. Ánh sáng của vị trời ấy chiếu sáng cả hang động. Vị trời ấy đứng qua một bên và nói với con:

–Này Tỳ kheo! Này Tỳ kheo, ngài có trì bài kệ Hiền Thiện và hiểu ý nghĩa bài kệ ấy chăng?

Nói như vậy xong, con trả lời vị trời ấy rằng:

–Này vị trời, tôi không có trì bài kệ Hiền Thiện và hiểu ý nghĩa bài kệ ấy. Thưa ngài, vậy ngài có thọ trì bài kệ Hiền Thiện và hiểu ý nghĩa bài kệ ấy chăng?

Con nói như vậy xong, vị trời ấy trả lời con rằng:

–Này Tỳ kheo, tôi thọ trì bài kệ Hiền Thiện nhưng không biết ý nghĩa của bài kệ.

–Này vị trời, vì sao ngài thọ trì bài kệ Hiền Thiện mà lại không hiểu ý nghĩa của bài kệ?

–Này Tỳ kheo, vào một thời, tôi nghe đức Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca Lan Ðà, thành La Duyệt Kỳ, nói bài kệ Hiền Thiện này cho các Tỳ kheo nghe, nhưng Ngài không có giải nghĩa. (Bài kệ như trên). Như vậy, này Tỳ kheo, nên tôi thọ trì bài kệ Hiền Thiện mà không giải nghĩa được.

–Này vị trời, vậy làm sao? Ai thọ trì bài kệ Hiền Thiện và có thể giải nghĩa được bài kệ ấy?

Vị thiên nói:

–Này Tỳ kheo, đức Thế Tôn ở tại vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, thành Xá Vệ, Ngài thọ trì bài kệ Hiền Thiện này và hiểu ý nghĩa bài kệ ấy được. Cho nên này Tỳ kheo, nên theo đức Thế Tôn thọ trì bài kệ Hiền Thiện và đọc hiểu ý nghĩa bài kệ này, hãy suy tư, nhớ nghĩ và phụng hành bài kệ ấy. Vì sao vậy? Này Tỳ kheo, bài kệ Hiền Thiện và ý nghĩa của bài kệ ấy là nghĩa pháp hành của phạm hạnh, thành được thần thông cho đến đạo cao tột, cùng tương ưng với Niết bàn. người con nhà vọng tộc ấy tin, vui học đạo; tin vui xuất gia, bỏ nhà học đạo, nên thọ trì bài kệ Hiền Thiện và học hiểu ý nghĩa của bài kệ ấy. Hãy khéo tư duy, nhớ nghĩ và phụng trì.

Vị trời ấy nói xong, lạy dưới chân con, nhiễu quanh con rồi bỗng nhiên biến mất.

Phật bảo:

–Này Cường Kỳ! Ngươi có biết tên của vị trời ấy không?

–Bạch Thế Tôn, con không biết tên của vị trời ấy.

–Này Cường Kỳ, vị trời ấy tên là Bát Na Mạc Nan thiên tử, là vị Ðại tướng ở cõi trời thứ ba mươi ba.

–Bạch Thế Tôn, nay đã đúng lúc. Bạch Thiện Thệ, nay đã đúng lúc. Mong đức Thế Tôn nói bài kệ Hiền Thiện và ý nghĩa của bài kệ cho các Tỳ kheo nghe. Khi đức Thế Tôn dạy rồi, các Tỳ kheo sẽ phụng trì.

Này Cường Kỳ, hãy nên khéo suy nghĩ, lắng nghe, hãy khéo tư duy nhớ nghĩ, ta sẽ nói cho.

–Như vậy, thưa Thế Tôn!

Tôn giả Lô Da Cường Kỳ thọ nhận lời dạy của Thế Tôn. Ðức Thế Tôn nói bài kệ này (như trên).

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo nhớ nghĩ quá khứ? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo đối với sắc quá khứ hoặc vui mừng, đắm trước, an trụ trong đó; hoặc đối với thống (thọ), tưởng, hành, thức ở quá khứ hoặc vui mừng, đắm trước, trụ trong đó, như vậy, này Cường Kỳ, là Tỳ kheo nhớ nghĩ quá khứ.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo không nhớ nghĩ quá khứ? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo đối với sắc quá khứ không thích, không đắm, cũng không trụ trong đó; đối với thống, tưởng, hành, thức trong quá khứ cũng không thích, không đắm, không trụ ở trong đó. Như vậy, này Cường Kỳ, là Tỳ kheo không nhớ nghĩ quá khứ.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo mong cầu ở tương lai? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo mong cầu sắc ở tương lai, hoặc vui mừng, hoặc đắm trước, hoặc ở trong đó; hoặc đối với thống, tưởng, hành, thức ở đương lai, hoặc vui mừng, đắm trước, hay trụ ở trong đó. Như vậy, này Cường Kỳ, đó là Tỳ kheo nhớ nghĩ đương lai.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo không mong cầu ở tương lai? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo đối với sắc ở tương lai, không có vui mừng, không có đắm trước, không trụ ở trong đó; hoặc đối với thống, tưởng, hành, thức ở đương lai cũng không có vui mừng, không có đắm trước, không trụ ở trong đó. Như vậy, này Cường Kỳ, đó là Tỳ kheo không mong cầu ở đương lai.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo suy nghĩ pháp hiện tại? Này Cường Kỳ, đó là hoặc Tỳ kheo ưa thích sắc hiện tại, đắm trước trong đó , an trụ trong đó; đối với thống, tưởng, hành, thức ở hiện tại cũng ưa thích, đắm trước, và an trú trong đó. Như vậy, này Cường Kỳ, đó là gọi là Tỳ kheo suy tư, nhớ nghĩ pháp hiện tại.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo ngay trong hiện tại không suy nghĩ nhớ nghĩ? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo đối với sắc hiện tại không có ưa thích, không có đắm trước, không có an trụ; đối với thống, tưởng, hành, thức cũng không có ưa thích, không có đắm trước, không có trụ trong đó. Ðó là Tỳ kheo đối với pháp hiện tại không suy tư nhớ nghĩ.

Ðức Phật nói như vậy, tôn giả Lô Da Cường Kỳ nghe lời đức Thế Tôn nói, hoan hỷ vui sướng.

 

PHẬT NÓI KINH TÔN THƯỢNG

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1229)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 986)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1263)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1637)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1744)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2033)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2041)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3734)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9099)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4412)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12589)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5047)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16128)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11950)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14644)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11950)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15160)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10952)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10397)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12351)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14140)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16693)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11482)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11243)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11935)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51773)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15337)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13865)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11357)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12667)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant