Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phân Biệt Bố Thí

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13754)
Kinh Phân Biệt Bố Thí


PHẬT NÓI KINH PHÂN BIỆT BỐ THÍ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0084 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Tam Tạng Ðại sư Thi Hộ phụng chiếu.

Việt dịch: Thích Thiện Trì

---o0o--- 

 


Như thật tôi nghe một thuở nọ, Phật cùng các vị Ðại Tỳ kheo vân tập tại vườn Ni-Câu-Ðà thành Ca-Tỳ-La-Vệ, là quê hương dòng họ Thích. Bấy giờ có một Tỳ-kheo-ni tên là Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Ðề (1) đem một cái y nĩ (2) đến chỗ Phật, đến nơi đảnh lễ dưới chân Ngài và lui lại đứng một bên bạch Phật rằng:

“ Bạch-Thế-Tôn, cái y nĩ mới này là tự tay con làm thành, xin dâng lên Thế-Tôn. Mong Thế-Tôn nhận cho để con được ân triêm phước lạc”.

Phật bảo Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Ðề: “ Bà nên đem cái y nĩ mới đó cúng cả Ðại chúng chư Tăng thì sẽ được phước lợi không khác gì như cúng dường Phật”.

Tỳ-kheo-ni Ma-Ha Ba-xà-Ba-Ðề thưa lại với Phật rằng: “ Bản ý của con, là chỉ để dâng cúng đức Thế-Tôn phát tâm tạo cái y này. Mong Thế-Tôn từ-bi doãn nạp, để cho con được ân triêm phước lạc”.

Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Ðề ân cần thưa phật ba lần như thế. Phật cũng ba lần đáp trả lại: “ Chỉ nên bình đẳng cúng cho Ðại chúng thì được lợi ích tốt đẹp, cũng như cúng cho Phật không khác gì cả”.

Khi ấy Tôn-giả A-Nan đứng hầu bên Phật, chứng kiến sự kiện như thế, mới đến trước bạch Phật rằng:

“ Bạch Thế-Tôn. Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà Ba-Ðề này là người thân của Phật, là người có ân đức rất lớn đối với Phật. Ðiều đó Phật đã rõ. Nay đây bà đã có lòng đem dâng cái y này cho Phật, là điều hợp tình, hợp cảnh và đúng lúc. Xin Phật giũ lòng từ bi, hoan hỉ chấp nhận, để cho bà được ân triêm phước đức.

Phật bảo A-Nan “ Ðúng vậy, đúng vậy! Bà là người thân của ta, có ân đức lớn đối với ta, ta tự biết điều đó. Nay bà đã tự tay tạo lấy pháp-y đem đến cúng cho ta, thật là việc rất khó làm. Tại sao thế?

A-Nan này! Ôâng nên biết rằng: Duy cái việc khởi lòng tin thanh tịnh, quy y Phật Pháp Tăng, đã là việc rất khó thực hiện. Càng khó thực hiện hơn nữa là cái việc có thể giữ gìn những giới pháp của một Phật tử cận sự như: không sát hại, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu,v.v... Huống chi, đã biết cung kính Phật, lại còn biết bố thí, đã bố thí, lại biết tin tưởng Phật một cách thanh tịnh, không hề nghi ngờ, cũng như Chánh-pháp và Tăng-già, cho chí nghĩa lý của bốn thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.

Này A-Nan, vậy mà nay Tỳ-kheo-ni Ba-Xà Ba-Ðề này đã có thể phát khởi lòng tin thanh tịnh, qui y Phật Pháp Tăng, thọ trì những giới pháp của một vị Phật tử cận sự như không sát hại, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu,v.v... lại còn tin tưởng Phật Pháp Tăng, cho chí nghĩa lý của bốn thánh đế Khổ Tập Diệt Ðạo và đã phát tâm xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Tất cả những việc khó làm mà bà làm được, ta cũng đều chứng biết.

Này A-Nan, nói đến công đức về bố thí thì đại khái có mười bốn thứ:

1- Bố thí cho người bịnh.

2- Bố thí cho người phá giới.

3- Bố thí cho người giữ giới.

4- Bố thí cúng dường cho người xa lìa ô nhiễm.

5- Bố thí cúng dường bậc Tu-Ðà-Hoàn-hướng.

6- Bố thí cúng dường bậc Tu-Ðà-Hoàn-quả.

7- Bố thí cúng dường bậc Tư-Ðà-Hàm-hướng.

8- Bố thí cúng dường bậc Tư-Ðà-Hàm-quả.

9- Bố thí cúng dường bậc A-Na-Hàm-hướng.

10- Bố thí cúng dường bậc A-Na-Hàm-quả.

11- Bố thí cúng dường bậc A-La-Hán-hướng.

12- Bố thí cúng dường bậc A-la-Hán-quả.

13- Bố thí cúng dường các bậc Duyên-Giác.

14- Bố thí cúng dường các đức Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Ðẳng Chánh-Giác.

A-Nan, ông nên biết rằng: Bố thí cho người bịnh khổ đặng phước gấp đôi người thường. Bố thí cho người phá giới đặng phước gấp trăm lần. Bố thí cho người giữ giới đặng phước gấp ngàn lần. Bố thí cho người xa lìa sự nhiễm ô đặng phước gấp trăm ngàn lần. Bố thí cho vị Tu-Ðà-hoàn-hướng đặng phước vô lượng, huống chi là vị Tu-Ðà-Hoàn-quả. Bố thí cho vị Tư-Ðà-Hàm-quả. Bố thí cho vị A-Na-Hàm-hướng đặng phước vô lượng, huống chi là vị A-Na-Hàm-quả. Bố thí cho vị A-La-Hán-hướng đặng phước vô lượng huống chi là vị A-La-Hán-quả. Bố thí cho các bậc Duyên-Giác đặng phước vô lượng, huống chi là các đức Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Ðẳng Chánh-Giác. Như vậy gọi là so sánh mười bốn thứ công đức bố thí.

Hơn nữa, A-Nan nên biết rằng: Bố thí cho đại chúng có bảy hạng:

1- Bố thí cho đại chúng Tỳ kheo của Phật hiện tiền.

2- Bố thí cho đại chúng Tỳ-kheo sau khi Phật cho nhập diệt.

3- Bố thí cho đại chúng Tỳ-kheo-ni sau khi Phật nhập diệt.

4- Bố thí cho cả hai chúng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni sau khi Phật nhập diệt.

5- Bố thí cho các chúng Tỳ-kheo-ni đi chu du hoá đạo khắp các phương sau khi Phật nhập diệt.

6- Bố thí cho các chúng Tỳ-kheo-ni đi chu du hoá đạo khắp các phương sau khi Phật nhập diệt.

7- Bố thí cho cả hai chúng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đi chu du hoá đạo khắp các phương sau khi Phật nhập diệt.

Như vậy gọi là bảy hạng đại chúng mà các người cần phải bố thí. Hơn thế nữa, A-Nan nên biết rằng: có bốn cách bố thí thanh tịnh:

1- Năng thí thanh tịnh, tức không có kẻ thọ.

2- Sở thí thanh tịnh, tức không có kẻ thọ.

3- Năng thọ thanh tịnh, tức không có kẻ thí.

4- Sở thọ thanh tịnh, tức không có kẻ thí.

A Nan, sao gọi là năng thí thanh tịnh, tức không có kẻ thọ? -Nghĩa là do kẻ thí không chấp tướng. Tức thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, chánh mạng thanh tịnh, sự thấy biết thanh tịnh. Ðầy đủ như vậy tức không có tướng thí. Vì không có tướng thí cho nên không có kẻ thọ. Nếu kẻ thí có thấy tướng tức là ba nghiệp thân, khẩu, ý không thanh tịnh, sự thấy biết cũng không thanh tịnh. Nếu lìa được cái thấy tướng ấy, tức là kẻ thí và kẻ thọ cả hai đều thanh tịnh.

Lại nữa, sao gọi là sở thí thanh tịnh tức không có kẻ thọ?

Nếu kẻ thọ thân nghiệp không thanh tịnh, khẩu nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh, sự thấy biết không thanh tịnh, tức có tướng sở thí. Nếu kẻ thọ ba nghiệp thanh tịnh, sự thấy biết thanh tịnh, đầy đủ như vậy, tức không có tướng sở thí. Lìa tướng, là sở thí thanh tịnh.

Lại nữa, sao gọi là năng thọ thanh tịnh tức không có kẻ thí?

Nếu kẻ thọ ba nghiệp thân, khẩu, ý không thanh tịnh, mạng không thanh tịnh, sự thấy biết không thanh tịnh tức có tướng năng thọ, nếu lìa tướng năng thọ ấy, tức là không có kẻ thí.

Lại nữa, sao gọi là sở thanh tịnh tức không có kẻ thí?

Nghĩa là do kẻ thí ba nghiệp thanh tịnh, mạng thanh tịnh, sự thấy biết thanh tịnh tức không có sở thí, lìa sở thí, nên không có sở thọ. Vì vậy sở thọ thanh tịnh.

Lúc bấy giờ Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà Ba-Ðề nghe Phật tuyên thuyết đủ mọi phương pháp bố thí như thế. Bà liền đem cái đó bố thí cho cả đại chúng. Khi đó cả chúng Tỳ-kheo liền vì bà mà vui lòng nhận lấy.

Phật bảo A-Nan: Ðời sau nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào có tín tâm, đối với đại chúng khởi lòng thanh tịnh, mà làm việc bố thí thì sẽ được phước đức vô lượng. Huống chi là hôm nay, bố thí cho đại chúng hiện tiền.

Bấy giờ Tôn-giả A-Nan và Tỳ-kheo-ni Ma-Ha Ba-Xà Ba-Ðề nghe Phật nói xong vui lòng hớn hở, tin tưởng vâng theo lời Phật dạythực hành.


Chú Thích:

(1) Ma-ha Ba-Xà Ba-Ðề dịch âm từ chữ Phạn (Mahãprajãpatĩ) nghĩa là Ðại-Ái-Ðạo, Di mẫu của Phật. Sau bảy ngày sanh Thái tử Tất Ðạt Ða thì Hoàng-Hậu Ma-Da qua đời, Ma-Ha Ba-Xà Ba-Ðề nuôi dưỡng thái tử cho đến khi khôn lớn. Nên nói bà là người thân và có ân đức lớn đối với Phật. Sau nhờ Ngài A-Nan xin Phật cho bà được xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Về Ni giới bà là người xuất gia đầu tiên, thường gọi là Kiều-Ðàm-Di ( GOTAMI).

(2) Có chỗ nói là “ Kim-lũ ca-sa”, tức y ca-sa bằng kim
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13197)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17890)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12436)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 54182)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14411)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 13812)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57931)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 13300)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11914)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 14651)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12151)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 13653)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13312)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 12168)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 11830)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42049)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 38777)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14710)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12685)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16008)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14437)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 13696)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 16374)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12891)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14157)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14100)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16461)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12374)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14374)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11298)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11020)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13187)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13883)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13151)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12995)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13487)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 13611)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33631)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11323)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12891)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13036)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11603)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17868)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11409)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11468)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18957)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12528)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13129)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15734)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11801)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11685)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12737)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12622)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13936)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12959)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12912)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13273)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant