Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Trai Giới

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14165)
Kinh Trai Giới


PHẬT NÓI KINH TRAI GIỚI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0087 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ngô, nước Nguyệt Thị cư sĩ Chi Khiêm

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại cung điện nhà của Thừa tướng, phía đông thành Xá Vệ. Mẹ của Thừa tướng tên là Duy Da, sáng sớm thức dậy tắm rửa, mặc áo tơ năm sắc, cùng các con, vợ đi ra để lạy dưới chân đức Phật rồi ngồi qua một bên. Ðức Phật hỏi Duy Da:

–Tại sao tắm rửa sớm vậy?

Thưa rằng:

–Con muốn cùng các con, vợ đều thọ trai giới.

Ðức Phật nói:

–Trai giới có ba loại. Vậy thích loại trai giới nào?

Duy Da quỳ xuống thưa rằng:

–Con muốn được nghe sao gọi là ba loại trai giới?

Ðức Phật dạy:

1. Trai giới theo kiểu người chăn trâu.

2. Trai giới theo kiểu Ni Kiền.

3. Trai giới theo Phật pháp.

Trai giới theo kiểu người chăn trâu là giống như người chăn trâu mong cầu nước, cỏ, thức ăn tốt để nuôi trâu của họ. Buổi chiều suy nghĩ xem có đám cỏ nào phong phú, phì nhiêu để sáng mai dắt trâu đến đó. Nếu người nam hoặc nữ đã thọ trai giới mà tâm ý để ở gia đình, muốn sinh lợi cho sản nghiệp và nghĩ đến thức ăn nuôi dưỡng thân thể, đó là như ý của người chăn trâu, nên không được đại phước và đại quang minh.

Trai giới theo kiểu Ni Kiền là vào ngày mười lăm trong tháng, nằm dưới đất để thọ trì trai giới, vì các thần trong mười do diên lễ bái nói:

–Ngày hôm nay tôi ăn chay không dám làm ác, chúng tôi không có nhà cửa, không có thân thích, vợ con, tôi tớ đều chẳng phải là sở hữu của tôi, tôi không phải là chủ của họ.

Nhưng người học đạo ấy bản chất đê tiện, không có tâm chơn chánh, đến sáng mai thì cái danh vẫn có như cũ. Trai giới như vậy không được đại phước và đại quang minh.

Trai giới theo lối Phật phápđệ tử học đạo cứ mỗi tháng có sáu ngày ăn chay, thọ trì tám giới. Những gì là tám?

–Giới thứ nhất: suốt một ngày một đêm giữ tâm như chơn nhân, không có ý sát sanh, thương tưởng chúng sanh, không được giết hại cho đến loài côn trùng, không cầm dao gậy, nghĩ và muốn chúng sanh được bình an lợi lạc chẳng bị sát hại, như giới thanh tịnh, nên nhất tâm tu tập.

–Giới thứ hai: suốt một ngày một đêm giữ tâm như chơn nhân, không có ý tham lam trộm cắp, nhớ nghĩ việc bố thí, sẽ hoan hỷ cho, tự tay cho, cho với sự trong sạch, cho với tâm cung kỉnh, không mong trả ơn, trừ bỏ ý xan tham, như giới thanh tịnh, một lòng tu tập.

–Giới thứ ba: giữ một ngày một đêm tâm như chơn nhân, không có ý dâm, không nghĩ phòng thất, tu hành phạm hạnh, không làm tà dục, tâm không tham sắc, như giới thanh tịnh, một lòng tu tập.

–Giới thứ tư: thọ trì một ngày một đêm tâm như chơn nhân, không có ý nói dối, nhớ nghĩ chí thành, lời lẽ an định, từ không được dối trá, tâm miệng giống nhau, như giới thanh tịnh, một lòng tu tập.

–Giới thứ năm: thọ trì một ngày một đêm tâm như chơn nhân, không uống rượu, không say sưa, không mê loạn, không thất chí, từ bỏ ý phóng dật, như giới thanh tịnh, một lòng tu tập.

–Giới thứ sáu: thọ trì một ngày một đêm tâm như chơn nhân, không có ý cầu an, không đeo hoa thơm, không thoa son phấn, không ca múa, xướng hát, như giới thanh tịnh, một lòng tu tập.

–Giới thứ bảy: thọ trì một ngày một đêm tâm như chơn nhân, không có ý cầu an, không nằm giường đẹp, chỉ nằm giường thấp, ngồi ghế cỏ, trừ bỏ việc nằm ngủ, nhớ nghĩ kinh, đạo, như giới thanh tịnh, một lòng tu tập.

–Giới thứ tám: thọ trì một ngày một đêm tâm như chơn nhân, thờ pháp ăn đúng giờ, ăn ít, điều độ thân, quá giờ ngọ không được ăn lại, như giới thanh tịnh, một lòng tu tập.

Ðức Phật bảo Duy Da:

–Ngày trai giới nên tu tập năm điều nhớ nghĩ. Những gì là năm?

1. Niệm Phật, Phật là Như Lai, bậc Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, là Thiện Thệ, cha của thế gian, Vô Thượng Sĩ, Kinh Pháp Ngự, Thầy của trời, người, hiệu là Phật. Ðó là nhớ nghĩ đức Phật, những tập quán sân hận, ác ý ngu si đều trừ hết, thiện tâm tự sanh, nghĩ thích việc làm của Phật, giống như dùng dầu mè đậu tắm rửa, gội đầu, làm cho cấu uế trên đầu được sạch. Người trai giới niệm Phật cũng thanh tịnh như vậy, mọi người trông thấy đều ưa thích.

2. Phải niệm Pháp, Phật nói pháp ba mươi bảy phẩm, đầy đủ không hoại, nhớ nghĩ không quên, nên biết pháp này là ánh sáng của thế gian. Ðó là niệm Pháp, tập quán sân hận, ác ý ngu si đều trừ hết, thiện tâm tự sanh, do ưa thích Pháp nghiệp. Thí như dùng dầu mè tháo đậu tắm rửa làm bụi bặm trên thân được sạch. Người trai giới niệm Pháp, tâm thanh tịnh như vậy, mọi người trông thấy ai chẳng ưa thích.

3. Phải niệm chúng Tăng, cung kính thân cận, y chỉ, thọ trì sự dạy dỗ trí huệ. Chúng đệ tử của Phật, người được Cấu hạng thọ, được Cấu hạng chứng, có người được Tần lai thọ, Tần lai chứng, có người được Bất hoàn thọ, Bất hoàn chứng, có người được Ứng Chơn thọ, Ứng chơn chứng. Ðó là bốn đôi tám bậc, trượng phu đều thành tựu giới, định, huệ, giải và độ tri kiến, là bậc thánh đức, việc làm đã đầy đủ, nên phải chắp tay lạy bậc tôn giả phước điền của trên trời dưới trời. Ðó là niệm chúng nên tập khí sân hận, ác ý ngu si đều trừ, tâm hoan hỷ tự sanh, ưa thích việc làm của chúng. Thí như lấy nước tro để giặt áo, chất dơ sẽ tẩy sạch. Người trai giới niệm chúng, oai đức như vậy, mọi người trông thấy ai chẳng ưa thích.

4. Niệm giới: thân thọ giới của Phật phải một lòng phụng trì, không khuyết, không phạm, không động, không quên, khéo léo an lập, cẩn thận giữ gìn, nêu cao trí tuệ; tập quán sân hận, ác ý ngu si đều trừ sạch, tâm hoan hỷ tự sanh, thích giới trong các nghiệp, giống như lau gương, vật dơ đã hết, ánh sáng hiện ra. Người trai giới niệm giới, tâm thanh tịnh như vậy, mọi người trông thấy ai chẳng ưa thích?

5. Nên niệm Thiên: Tứ Thiên Vương, Ðao Lợi Thiên, Diêm Thiên, Ðâu Thuật Thiên, Bất Kiêu Lạc Thiên, Hóa Ứng Thanh Thiên. Cần phải tự niệm: “Ta đã có Tín, có Giới, có Văn, có Thí, có Trí, đến lúc thân chết, tinh thần lên trời, mong ta đừng mất tín, giới, văn, thí trí này. Ðó là nhờ niệm Thiên nên tập quán sân hận, ác ý ngu si đều trừ sạch, tâm hoan hỷ tự sanh, ưa thích các nghiệp của Thiên, giống như ngọc báu thường được trong sáng. Người trai giới niệm Thiên, tâm thanh tịnh như vậy, phụng trì tám giới cấm, thực tập năm điều nhớ nghĩ, là trai giới theo Phật pháp, cùng chư thiên tu đức, diệt ác tu thiện, về sau sanh lên trời, cuối cùng đắc quả Nê hoàn. Cho nên người trí tự nỗ lực tu hành, phát tâm làm phước.

Như vậy, này Duy Da, phước đức từ việc trai giới tiếng tăm xa rộng rõ ràng, thí như mười sáu nước lớn ở trong thiên hạ, trong mười sáu nước này dẫy đầy của báu không sao kể hết, cũng không bằng một ngày thọ trì trai giới của Phật pháp. Phước đức như vậy to lớn đến nỗi của báu của mười sáu nước dồn lại chỉ bằng một hạt đậu mà thôi. Sự rộng lớn ở trên trời không thể nói được, nay đây nhân gian năm mươi năm thì ở cõi trời thứ nhất mới một ngày một đêm. Tuổi thọ ở trên cõi Tứ Thiên thứ nhất là năm trăm tuổi, so với nhân gian là chín trăm vạn năm. Người trai giới của Phật pháp được sanh cõi trời ấy. Nhân gian một trăm năm thì cõi trời Ðao Lợi chỉ có một ngày một đêm, mà tuổi thọ ở trên cõi trời Ðao Lợi là một ngàn tuổi, so với nhân gian là ba ngàn sáu trăm vạn tuổi. Nhân gian hai trăm năm thì ở cõi trời Diêm Thiên chỉ có một ngày một đêm, mà tuổi thọ ở cõi Diêm Thiên là hai ngàn năm, so với nhân gian phải trải qua một ức năm ngàn hai trăm vạn năm. Ở nhân gian bốn trăm năm chỉ bằng một ngày một đêm trên cõi trời Ðâu Thuật Thiên. Tuổi thọ ở cõi Ðâu Thuật Thiên là bốn ngàn năm, vậy ở nhân gian phải trải qua sáu ức tám trăm vạn năm. Ở nhân gian tám trăm năm thì chỉ bằng một ngày một đêm ở trên cõi trời Bất Kiêu Lạc. Tuổi thọ ở cõi trời Bất Kiêu Lạc là tám ngàn tuổi, so với nhân gian phải trải qua hai mươi ba ức bốn ngàn vạn năm. Ở nhân gian một ngàn sáu trăm năm chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Hóa Ứng Thanh. Tuổi thọ ở cõi trời Hóa Ứng Thanh là một vạn sáu ngàn năm. Vậy nhân gian phải mất chín mươi hai ức một ngàn sáu trăm vạn năm.

Nếu ai có Tín, có Giới, có Văn, có Thí, có Trí phụng trì trai pháp của Phật, ngay khi mạng chung, tinh thần đều được sanh lên sáu cõi trời này, được an ổn khoái lạc. Theo đó, thiện pháp rất nhiều, ta chỉ nói rất ít. Hễ ai làm thiện thì quỷ thần, thiên thượng thọ phước vô lượng.

Duy Da nghe lời đức Phật dạy, hoan hỷ nói:

–Lành thay! Lành thay! Thưa Thế Tôn, phước đức của trai pháp thật là sung sướng vô lượng. Mong cho con được thọ giới của Phật. Từ nay về sau, cứ mỗi tháng con thọ sáu ngày trai giới, nỗ lực làm phước cho đến chết.

Ðức Phật nói kinh này xong, tất cả đều hoan hỷ thọ giáo.

 

PHẬT NÓI KINH TRAI GIỚI

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1278)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1036)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1318)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1714)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1791)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2092)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2086)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3778)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9199)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4496)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12237)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11584)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12791)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10729)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10497)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10699)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16250)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7111)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5081)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16515)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13842)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16287)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16188)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12686)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11791)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15652)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12001)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 14986)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13120)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14522)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20669)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13207)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10930)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14341)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20360)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14007)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14739)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12045)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15267)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11053)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10496)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12451)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14287)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16795)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11554)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11328)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12035)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52064)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15446)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13956)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11419)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13146)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12762)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant