Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Trì Trai

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14656)
Kinh Trì Trai


PHẬT NÓI KINH TRÌ TRAI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0087 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ngô, nước Nguyệt Thị cư sĩ Chi Khiêm

Việt dịch: Thích Tâm Châu

---o0o--- 

 

 

Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong điện quan Thừa Tướng, thuộc phía Đông thành Xá-Vệ.

 

Một hôm mẹ quan Thừa Tướng ấy tên là Duy-Da; sáng sớm dậy, bà tắm gội, mặc áo mầu, rồi cùng những người con dâu đi đến chốn Phật. Đến nơi, cùng nhau cúi đầu lễ sát chân Phật. Lễ xong, tất cả đều ngồi về một bên.

 

Đức Phật hỏi bà Duy-Da: Bà tắm gội làm gì sớm thế? - Bà thưa: Lạy đức Thế-Tôn, con muốn cùng những con dâu con cùng thụ trai-giới!

 

Đức Phật dạy: Trai có ba hạng, bà muốn trì hạng trai nào! - Bà Duy-Da liền quỳ xuống và thưa rằng: Lạy đức Thế-Tôn, chúng con chưa biết gì, nay chúng con muốn được Thế-Tôn chỉ giáo cho chúng con nghe biết những gì là ba hạng trì trai? - Đức Phật dạy: Một là trì trai như những người chăn trâu. Hai là trì trai như những người tu đạo Ni-Kiền (Nirgrantha: khỏa thân). Ba là, trì trai của Phật-pháp.

 

- Trì trai như những người chăn trâu: Nghĩa là, những người chăn trâu cầu sao được nước lành, cỏ ngon, trâu ăn uống no. Chiều về suy nghĩ xem cánh đồng nào được phong-nhiêu, để sớm mai lại lùa trâu đến chỗ ấy cho nó ăn. Cũng như những họ hàng, trai, gái, đã thụ trai giới, ý còn để vào lợi-dục sản nghiệp ở nhà và còn nghĩ đến những thức ăn uống ngon, để dưỡng dục thân thể. Thế là, sự trì trai ấy cũng như ý người chăn trâu kia, không được phúc lớn và không phải là sáng suốt lắm.

 

- Trì trai như những người tu đạo Ni-Kiền: Nghĩa là, đến thời trai giới, ngày rằm (15) trong tháng, những người tu đạo Ni-Kiền họ nằm ép mình xuống đất để thụ trai-giới, họ lại làm lễ, lạy các vị Thần trong khu vực mười do-tuần và tâu rằng: "Ngày nay tôi trì trai, không dám làm ác; không dám gọi rằng có nhà người kia, nhà của tôi và tôi không thân quen gì; vợ, con, tôi-tớ không phải là của tôi có, tôi cũng không phải là chủ của họ". Song, cái học của họ chỉ là cái học văn sang mà chất hèn, không có gì là chính tâm cả. Đến sáng mai, khi mặt trời mọc rồi thời tất cả lại có những việc như việc cũ không khác chút nào. Thế là, trì trai như nhưng người tu đạo Ni-Kiền kia không được phúc lớn và không phải là sáng suốt lắm.

 

- Trì trai của Phật-Pháp: Nghĩa là, những đệ-tử trong đạo, theo lời đức Phật dạy, mỗi tháng sáu ngày trai, nên thụ-trì tám giới, Tám giới là những gì?

 

- Giới thứ nhất: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân (2), không có ý giết, nghĩ thương chúng-sinh. Và, không được cướp hại những loài côn trùng nhung-nhúc; không dùng dao, gậy đánh, giết chúng-sinh. Nghĩ muốn được an lành, lợi-lạc, đừng nên làm việc sát sinh. Như Giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ hai: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ý tham lấy của ai, tự-niệm bố-thí và nên cho bằng cách hoan hỷ cùng tự tay mình cầm cho, cho bằng cách trong sạch và cung-kính; không có ý mong-cầu cùng lại tham-lam, keo-lận. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ Ba: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có dâm ý, không nghĩ phòng-thất; tu-trì Phạm-hạnh, không làm tà-dục và tâm không tham-sắc. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ tư: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không ý vọng-ngữ, tư-niệm chí-thành, an-định từ-ngôn, không nói dối-trá, tâm, miệng hợp nhau. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ năm: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không uống rượu, không say, không mê-loạn, không thất ý và bỏ ý buông lung. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ sáu: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ý cầu an, không ham hoa, hương, không soa phấn sáp, không làm việc ca-vũ, xướng-nhạc. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ bảy: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ý cầu an, không nằm giường tốt. Nên nằm giường xấu, chiếu cỏ, bỏ sự nằm ngủ, tư-niệm kinh-đạo. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ tám: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, vâng theo như pháp ăn đúng thời; ăn ít và tiết-độ thân-thể, quá giữa ngày, sau không ăn. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

Đức Phật lại bảo bà Duy-Da: Ngày thụ-trì trai, nên tập niệm năm niệm. Năm niệm là những gì?

 

- Một là, nên niệm Phật: Phật có hiệu là Như-Lai, là Chí-chân, là Đẳng-chính-giác, là Minh-Hạnh-Túc, là Thiện-Thệ thế-gian-phụ, Vô-thượng-Sĩ, Kinh-pháp-ngự, Thiên-nhân-sư... gọi là Phật (3), Thế là niệm Phật. Niệm Phật: ngu si, ác-ý, nộ-tập đều trừ, thiện-tâm tự-sinh, nghĩ vui Phật-nghiệp. Ví như, người ta đem thứ ma du, tảo-đậu gội đầu, trừ được cáu bẩn. Người trì trai niệm Phật, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

 

- Hai là, nên niệm Pháp: Phật thuyết diệu-pháp ba mươi bảy phẩm, (4) đầy đủ không thiếu, tư niệm đừng quên. Và, nên biết Pháp ấy là ánh sáng của thế gian. Thế là niệm Pháp. Niệm Pháp: ngu-si, ác ý, nộ-tập đều trừ, thiện-tâm tự sinh, vui dùng Pháp-nghiệp. Ví như, người ta dùng thứ ma du, tảo-đậu tắm rửa thân thể, trừ được cáu bẩn. Người trì trai niệm Pháp, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

 

- Ba là, nên niệm Chúng (Tăng): Là, những đệ-tử Phật, cung kính, thân cận Phật, nương theo và lĩnh-thụ những lời giáo hóa của Phật để ngộ-nhập Phật tuệ. Những đệ tử Phật có người đắc vị Tu Đà Hoàn, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả-vị Tu Đà Hoàn; có người đắc vị Tư Đà Hàm, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị Tư Đà Hàm; có người đắc vị A Na Hàm, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị A Na Hàm; có người đắc vị A La Hán, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị A La Hán. Ấy là tám hạng (Bát bối: tứ quả, tứ hướng) Trượng phu. Trong bốn đôi (tứ song) trên đây, đều là những vị thành Giới, thành Định, thành Tuệ, thành Giải (giải thoát), thành Độ-tri-kiến (giải thoát tri kiến); là những vị có Thánh-đức, là những vị đủ mọi hạnh, nên chắp tay cung-kính các bậc Tôn-giả phúc-điền trong thiên thượng, thiên hạ ấy. Thế là niệm Chúng. Niệm Chúng: ngu si, ác ý, nộ-tập đều trừ, hỷ-tâm tự sinh, ưa vui Chúng-nghiệp. Ví như, người ta lấy tro chính giặt áo, trừ được nhơ, cáu. Người trì trai niệm chúng, đức họ như thế, mọi người thấy họ ai chẳng tin, ưa.

 

- Bốn là, nên niệm Giới: Thân thụ giới của Phật, nên nhất tâm vâng giữ không thiếu, không phạm, không động không quên, khéo kiến lập, giữ cẩn thận, làm gì là đều làm trong đường trí-tuệ, sau không hối hận; không có hy-vọng và thường đem lòng bình đẳng dạy người. Thế là niệm Giới. Niệm Giới: ngu si, ác ý, nộ-tập đều trừ, hỷ tâm tự sinh, vui giới-thống-nghiệp (5). Ví như, mài gương, cáu sạch, sáng tỏ. Người trì trai niệm Giới, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

 

- Năm là nên niệm Thiên: Thiên là cõi trời, có: thứ nhất là Tứ-thiên-vương, thứ hai là Đao-lỵ-thiên, Diêm-thiên, Đâu-thuật-thiên, Bất-kiêu-lạc-thiên, Hóa-ứng-thanh-thiên (6)... Nên tự niệm rằng: "Ta vì có đức tin, có giới-pháp, có nghe biết, có bố thí, có trí tuệ... đến khi thân ta chết đi, tinh thần ta sẽ sinh lên cõi Thiên. Ta nguyện không mất được đức tin, giới-pháp, nghe biết, bố thí, trí tuệ". Thế là niệm Thiên. Niệm Thiên: ngu si, ác ý, nộ-tập đều trừ, hỷ-tâm tự-sinh, vui Thiên-thống-nghiệp (7). Ví như bảo-châu, thường sửa chữa tối tăm, đem lại trong sáng. Người trì trai niệm Thiên, đức thanh-tịnh của họ như thế.

 

Vâng giữ tám giới, tập năm điều tư-niệm là trì trai của Phật-Pháp. Và, cùng với cõi Thiên, tham đức, diệt ác, hưng thiện, sau sinh lên cõi Thiên, tới khi mệnh chung được lên cõi Niết-bàn. Thế nên bậc Trí-giả, tự lực thực-hành, ra tâm tác phúc.

 

Như thế, bà Duy-Da! Phúc lành của việc trì trai, thực rõ ràng, đáng khen và xa rộng như mười sáu đại quốc trong thiên-hạ này vậy. Mười sáu đại quốc trong thiên-hạ, dù trong ấy đầy đủ các của báu đến nổi không thể sao tính kể được, cũng không bằng một ngày thụ trì trai-pháp của Phật-Pháp. Xét thấy phúc ấy như thế, thời mười sáu đại quốc (8) kia cũng chỉ như là một hạt đậu.

 

Thọ số trên cõi Thiên thực là xa rộng không nói xiết được, như đương kim nhân-gian năm mươi năm, thời là một ngày một đêm cửa cõi Trời thứ nhất; cõi Tứ-thiên thứ nhất thọ năm trăm tuổi, thời cõi nhân-gian này chín trăm vạn năm, người trì trai của Phật-Pháp, được sinh lên cõi Trời ấy. Cõi nhân-gian một trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi trời Đao-Lỵ. Cõi trời Đao-Lỵ thọ một nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian này là ba nghìn sáu trăm vạn năm. Cõi nhân-gian hai trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi Diêm-Thiên. Cõi Diêm-Thiên thọ hai nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian này là một ức năm nghìn hai trăm vạn năm. Cõi nhân-gian bốn trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi Đâu-thuật-thiên. Cõi Đâu-thuật-thiên thọ bốn nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian này là sáu ức tám trăm vạn năm. Cõi nhân-gian tám trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi Bất-Kiêu-Lạc thiên. Cõi Bất- Kiêu-Lạc thiên thọ tám nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian này là hai mươi ba ức bốn nghìn vạn năm. Cõi nhân-gian một nghìn sáu trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi Hóa-Ứng-Thanh-Thiên. Cõi Hóa-Ứng-Thanh-Thiên thọ một vạn sáu nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian là chín mươi hai ức một nghìn sáu trăm vạn năm. Nếu người nào có đức tin, có giới-pháp, có nghe biết, có bố thí, có trí-tuệ, phụng-trì trai-pháp của Phật-Pháp, khi mệnh mất đi, tinh thần người ấy, đều sinh lên sáu cõi Trời ấy, hưởng sự an-ổn khoái lạc. Ôi việc thiện rất nhiều, đây ta chỉ nói ít vậy thôi! Phàm người làm việc thiện, hồn-thần sẽ sinh lên cõi Trời, thụ phúc vô-lượng.

 

Bà Duy-Da nghe đức Phật dạy như thế, hoan hỷ bạch: Quý hóa thay! Quý hóa thay! Lạy đức Thế-Tôn, phúc đức của việc trì trai khoái lạc vô-lượng, chúng con xin vâng thụ Phật giới và từ nay về sau mỗi tháng sáu ngày trai, chúng con xin hết sức làm việc phúc cho đến khi chết.

 

Đức Phật nói kinh này rồi, tất cả đều hoan-hỷ thụ-giới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43846)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 42987)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48966)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39768)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53745)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36779)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40763)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49679)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47242)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27647)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25791)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29839)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27084)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24662)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21241)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23171)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23838)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22748)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29519)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20580)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34114)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24592)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29943)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20166)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20361)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15094)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23814)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34014)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23947)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29122)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60044)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27542)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68636)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24468)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26299)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20737)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19991)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27482)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46288)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25504)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29178)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188467)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27338)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31067)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33076)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23940)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25527)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26610)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36539)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27260)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30311)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37209)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23844)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36866)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27545)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28283)
Công Phu Khuya
(Xem: 24117)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant