Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Mười Cư Sĩ Người Bát Thành

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13341)
Kinh Mười Cư Sĩ Người Bát Thành


PHẬT NÓI KINH MƯỜI CƯ SĨ NGƯỜI BÁT THÀNH


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0092 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, nước An Tức Tam Tạng An Thế Cao.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 


Nghe như vầy:

Một thời các Tỳ kheo thượng tôn ở trong Kê viên thành Ba La Lê Phất Ðô Lô, lúc đức Thế Tôn nhập Niết bàn không bao lâu.

Bấy giờ có mười vị cư sĩ, người Bát Thành, có nhiều tiền của đi đến Ba La Lê Phất Ðô Lô để sinh sống. Khi ấy mười vị cư sĩ ở Bát Thành mang tiền tài đồ vật để buôn bán, bán hết rồi nên rất hoan hỷ, khi được tài lợi rất hoan hỷ, trong lòng vô cùng sung sướng. Họ đi ra khỏi thành Ba La Lê Phất Ðô Lô để đến Kê viên. Khi đến xong họ lạy dưới chân các Tỳ kheo thượng tôn rồi ngồi qua một bên. Khi mười vị cư sĩ người của Bát Thành ngồi qua một bên rồi, lúc ấy các Tỳ kheo thượng tôn thuyết pháp cho họ nghe, khuyên tinh tấn... bình đẳng khuyên dạy tinh tấn, bình đẳng dạy dỗ, dùng vô lượng phương tiện để thuyết pháp khuyên siêng năng cho đến bình đẳng giáo thọ, khiến cho tất cả đều hoan hỷ rồi, các ngài trụ trong im lặng.

Bấy giờ mười vị cư sĩ, ở người Bát Thành nghe các vị Tỳ kheo thượng tôn thuyết pháp khuyến tinh tấn cho đến tất cả đầu hoan hỷ rồi, bạch các Tỳ kheo thượng tôn rằng:

-Thưa chư vị thượng tôn, hiện nay tôn giả A Nan ở chỗ nào? Chúng con muốn gặp Ngài.

-Này cư sĩ, tôn giả A Nan ở trên bờ sông Di Hầu của Tỳ Xá Ly, muốn gặp Ngài thì cứ đến đó.

Khi ấy mười vị cư sĩ, người Bát Thành từ tòa đứng dậy lạy dưới chân các Tỳ kheo thượng tôn, nhiễu quanh rồi ra đi. Họ đến chỗ tôn giả A Nan, đến rồi lạy dưới chân tôn giả A Nan, rồi ngồi lui qua một bên. Mười vị cư sĩ người ở Bát Thành ngồi lui qua một bên rồi thưa tôn giả A Nan rằng:

-Thưa Ngài A Nan, chúng con có điều muốn hỏi, nếu Ngài cho phép chúng con mới dám hỏi.

-Cứ hỏi đi, này các cư sĩ.

-Thưa tôn giả A Nan, đức Thế Tôn có trí có kiến, Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, dùng mắt thấy đệ nhất nghĩa nói một pháp làm cho Thánh đệ tử an trú, đối với chỗ khác, làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát chăng?

-Này cư sĩ, đức Thế Tôn có trí có kiến, Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, dùng mắt thấy đệ nhất nghĩa nói một pháp Thánh đệ tử được an trú, đối với chỗ khác, làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát.

-Thế nào, thưa tôn giả A Nan, đức Như Lai bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, dùng mắt thấy đệ nhất nghĩa nói một pháp, Thánh đệ tử an trú, đối với chỗ khác, làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát?

-Này cư sĩ, Thánh đệ tử đã nghe, đối với dâm dục đã được giải thoát cho đến Tứ thiền, an trú chánh thọ. Vị ấy nương vào Pháp, pháp tướng quán hạnh đình chỉ. Vị ấy nương vào Pháp, an trụ sự đình chỉ pháp tướng quán hạnh, nhờ có chỗ này nên chỗ trụ của vị ấy được chấm dứt hữu lậu, không trụ nơi đó nên được chấm dứt hữu lậu. Kẻ ấy tự mình thích pháp, tự mình yêu pháp, tự mình tập pháp, tự mình kính pháp, được hoan hỷ, kẻ ấy năm hạ phần kiết đã chấm dứt, được hóa sanh. Kẻ ấy được Bát Niết bàn thành A Na Hàm, không còn trở lại thế gian này nữa. Do đó này các cư sĩ, đức Thế Tôn hữu trí hữu kiến, Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, mắt thấy đệ nhất nghĩa, nói một pháp nên Thánh đệ tử an trụ, có chỗ khác làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát.

Lại nữa, này cư sĩ, Thánh đệ tử nghe, ý cùng từ tâm biến mãn một phương rồi, an trụ chánh thọ. Như vậy, hai, ba, bốn phương trên và dưới, ý cùng từ tâm câu hữu biến mãn tất cả các phương, không oán, không hại, không hận, rất rộng lớn, phân biệt rõ ràng, biến mãn các phương rồi an trụ chánh thọ. Như vậy ý cùng đi đôi với tâm bi, hỷ và hộ, biến mãn các phương rồi, an trụ chánh thọ. Vị ấy nương vào pháp đình chỉ pháp tướng quán hạnh. Vị ấy nương vào pháp an trụ sự đình chỉ pháp tướng quán hạnh, nhờ có chỗ này, an trụ vào đó rồi liền được chấm dứt hữu lậu, không trụ nơi đó, được chấm dứt hữu lậu. Nếu kẻ ấy dùng pháp lạc, pháp ái, tập hành pháp, tôn kính pháp, được hoan hỷ đối với pháp, năm hạ phần kết chấm dứt, được hóa sanh, ngay nơi đó được Bát Niết bàn thành A Na Hàm, không còn trở lại thế gian này nữa. Này cư sĩ, đó là đức Thế Tôn có trí có kiến, Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, mắt thấy đệ nhất nghĩa, nói một pháp mà Thánh đệ tử an trụ, có một chỗ khác làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát.

Lại nữa, này cư sĩ, Thánh đệ tử nghe, vượt qua tất cả sắc tưởng, cho đến hữu tưởng vô tưởng xứ, an trụ chánh thọ, vị ấy nương vào pháp, đình chỉ pháp tướng quán hạnh, cho đến chấm dứt hữu lậu, ý được giải thoát.

Bấy giờ mười vị cư sĩ người ở Bát Thành thưa với tôn giả A Nan rằng:

-Rất lạ, thưa tôn giả A Nan! Chúng con hỏi tôn giả A Nan có một cửa cam lồ mà Ngài nói tới mười hai cửa cam lồ. Thưa tôn giả A Nan, đối với mười hai cửa cam lồ này, cứ nương vào mỗi một cửa cam lồ sẽ được an ổn, tự mình được chế ngự. Giống như, thưa tôn giả A Nan, cách thôn xóm không xa, có một tòa lâu đài, tòa lâu đài ấy có mười hai cửa. Hoặc có người vào trong ấy vì có chút việc, hoặc có người sống không có nghĩa, không lợi ích, không an ổn, không khoái lạc trong nhà ấy, hoặc có người dùng lửa để thiêu đốt tòa lâu đài ấy. Thưa tôn giả A Nan, người đối với mười hai cửa này, tùy ý mà đi ra an ổn. Cũng như vậy, thật lạ lùng! Thưa tôn giả A Nan, chúng con chỉ hỏi tôn giả A Nan có một cửa cam lồ, nhưng Ngài đã nói đến mười hai cửa cam lồ. Thưa tôn giả A Nan, nhiều cửa như vậy nên đối với mười hai cửa cam lồ, nương vào từng cửa cam lồ, rồi cũng theo từng cửa mà đi ra. Thưa tôn giả A Nan, các Bà la môn kia đem ác pháp cúng thí đồ vật cho thầy họ, huống chi chúng con hiện nay đối với bậc đại sư mà lại không dùng của cải để cúng dường sao?

Bấy giờ mười vị cư sĩ người của Bát Thành, trong đêm đó, sửa soạn đầy đủ đồ ăn uống tịnh diệu, khi đã sửa soạn đầy đủ đồ ăn uống tịnh diệu xong, rồi họ trải tòa, trải tòa xong, họ thỉnh Tỳ kheo tăng ở Kê viên, Tỳ kheo tăng ở Tỳ Xá Ly đều đến tụ hội. Khi các Tỳ kheo tăng ở Kê viên, Tỳ kheo tăng ở Tỳ Xá Ly đều đã tụ hội, họ tự tay dâng cúng đồ ăn uống tịnh diệu. Khi đã tự tay dâng cúng đồ ăn uống tịnh diệu rồi, biết các Ngài đã dùng xong, thu cất bình bát, đem nước rửa tay cho các Ngài, rồi họ đem năm trăm món vật, mua phòng cúng dường cho tôn giả A Nan để Ngài xử dụng. Tôn giả A Nan đem của ấy lại cúng dường cho tăng bốn phương.

Ngài A Nan nói như vậy, mười vị cư sĩ người của Bát Thành, nghe tôn giả A Nan nói rồi, hoan hỷ vui mừng

 

PHẬT NÓI KINH MƯỜI VỊ CƯ SĨ NGƯỜI BÁT THÀNH

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1219)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 984)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1254)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1626)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1734)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2032)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2032)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3725)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9097)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4403)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12156)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11494)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12585)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9722)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10623)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10384)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10588)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16075)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7005)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5047)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20535)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14642)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11949)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15157)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10950)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10394)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12346)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14134)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11478)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11233)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11931)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51769)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15328)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13862)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11356)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12666)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant